Vị thuốc nhục thung dung ít dùng, nhưng lại rất được sử dụng chữa những trường hợp yếu sinh lý, sinh dục. Sách thần nông bản thảo xếp vị nhục thung dung vào loại “thượng phẩm”. Dùng trong những trường hợp liệt dương, lưng gối lạnh đau (nam giới), vô sinh bạch đới khí hư (nữ giới), huyết khô, táo bón.
Bạn đang xem: Nhục thung dung bán ở đâu
Tên gọi, danh pháp
Tên Tiếng Việt:Nhục thung dung (Thân).Tên khác:Thung dung; Đại vân; Hắc tư lệnh; Nhục tùng dung; Địa tinh; Tung dung; Kim duẩn.
Tên khoa học: Cistanche deserticola Y.C.Ma, họ Lệ dương (Orobanchaceae).
Đặc điểm tự nhiên
Vị nhục thung dung là toàn thân cây có mang lá vẩy Caulis Cistanchis. Trên thị trường người ta khai thác:
Cây thung dung - Cistanche deserticola Y. G. Ma thuộc họ Lệ dương Orobanchaceae.
Cây mễ nhục thung dung có tên khoa học Cistanche ambigua G. Beck (Bge) cùng họ Lệ dương.
Cây nhục thung dung có tên khoa học Cistanche salsa (C. A. Mey.) G. Bek., đều thuộc họ Lệ dương Orobanchaceae.
Nhục thung dung không phải là một loài thực vật thông thường, mà là loài ký sinh, phải sống nhờ (ký sinh) vào cây khác. Mùa xuân đến, mầm cây nhục thung dung đâm thủng mặt đất, mọc nhô lên trên, nhìn giống như một cái chày với đầu hơi nhọn, bên ngoài phủ kín lớp lá vẩy màu vàng, lóng lánh dưới ánh nắng mặt trời, như ngọn tháp vàng, rất hoành tráng.
Xem thêm: Tia Hồng Ngoại Có Tác Hại Của Tia Hồng Ngoại Camera Và Tia Cực Tím
Cây thường cao khoảng từ 15-30cm, có khi tới hàng mét. Vào các tháng 5, tháng 6 cây ra hoa dày đặc; hoa mọc ra từ chóp (phần ngọn), màu vàng nhạt, hình chuông, xẻ 5 cánh, cánh hoa màu xanh hoặc tím nhạt; tới các tháng 6, tháng 7 kết quả, nhỏ li ti, màu xám. Nhờ có lớp lá vẩy phủ kín toàn bộ bề mặt bên ngoài, nên tránh bị mất nước và có thể chịu đựng được điều kiện khí hậu khắc nghiệt ở vùng hoang mạc và được mệnh danh là “cây dũng sĩ trên hoang mạc”.

Phân bố, thu hái, chế biến
Vị thuốc nhục thung dung hiện nay ta còn hoàn toàn phải nhập. Theo những tài liệu của Trung Quốc thì những tỉnh có Nhục thung dung là Nội Mông Cổ, Thiểm Tây, Cam Túc, Tân Cương…
Vì vị thuốc này nung núc những thịt, tính chất bổ lại hòa hoãn từ từ, do đó có tên này. Tại những nơi có cây, người ta thu hoạch vào hai mùa xuân và thu, nhưng tháng 3 đến tháng 5 thu hoạch là tốt nhất. Quá thời gian đó thì chất lượng kém. Nếu thu hái vào mùa xuân, thì chỉ cần loại bỏ đất cát, để khô trong mát là được, còn nếu thu hoạch vào mùa thu, nước nhiều rất khó làm khô. Người ta cho vào hũ với muối và muối từ 1 đến 3 năm. Khi nào dùng làm thuốc thì rửa sạch muối mới dùng. Có khi người ta đun cách thủy với rượu để khi rượu cạn mới dùng. Cứ 1kg nhục thung dung dùng 0,3 lít rượu.
Bộ phận sử dụng
Phần rễ phát triển thành củ của Nhục thung dung được sử dụng để làm thuốc. Những củ to, mềm, có nhiều dầu, bên ngoài có vỏ mịn, màu đen được xem là chất lượng tốt.
Thành phần hóa học của Nhục thung dung rất phong phú có chứa các chất như: boschnaloside, orobanin, 8- epilogahic acid, betaine,… Còn chứa nhiều loại acid hữu cơ và trên 10 acid amin.
Theo các nghiên cứu dược lý, nhục thung dung là loại thuốc có tác dụng kiềm chế quá trình lão suy và kéo dài tuổi thọ, tăng thể lực, tăng cường khả năng miễn dịch, có tác dụng hạ huyết áp ở mức độ nhất định và có tác dụng như một loại hormon sinh dục, có khả năng kích thích và điều tiết hoạt động của tuyến thượng thận, khắc phục tình trạng chức năng tuyến thượng thận bị suy giảm và dẫn tới các bệnh liên quan.

Theo y học cổ truyền
Hiện vẫn chỉ thấy sử dụng trong y học cổ truyền. Tính vị, quy kinh: Cam, hàn, ôn. Vào các kinh thận, đại trường. Vị ngọt chua, tính hơi ôn, không có độc. Có tài liệu nói cay, ôn, đại nhiệt. Có tác dụng tư âm, bổ thận, ích tinh, huyết, tráng dương hoạt trường (mạnh dương trơn ruột). Dùng trong những trường hợp liệt dương, lưng gối lạnh đau (nam giới), vô sinh bạch đới khí hư (nữ giới), huyết khô, táo bón.
Theo y học hiện đại
Theo các nghiên cứu dược lý, nhục thung dung là loại thuốc có tác dụng kiềm chế quá trình lão suy và kéo dài tuổi thọ, tăng thể lực, tăng cường khả năng miễn dịch.
Ngoài ra sử dụng nhục thung dung còn có tác dụng hạ huyết áp ở mức độ nhất định và có tác dụng như một loại hormon sinh dục, có khả năng kích thích và điều tiết hoạt động của tuyến thượng thận, khắc phục tình trạng chức năng tuyến thượng thận bị suy giảm và dẫn tới các bệnh liên quan.