Giải mã bí mật gia tộc Rothschild khuynh đảo thế giới
Thực hiện Thanh Thảo - Thuỳ Dương
11/02/2025 17:14

“Giải mã bí mật gia tộc Rothschild khuynh đảo thế giới” là nhan đề bài viết theo Chuyên trang Hồ sơ sự kiện được đăng tải trên Tạp chí Cộng sản, là bài Podcast mà chúng tôi muốn gửi đến quý vị ngày hôm nay. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Gia tộc Rothschild là “triều đại” ngân hàng - tài chính của các tỷ phú gốc Do Thái giàu hàng đầu thế giới. Báo chí gọi Rothschild bằng những cái tên khác nhau như “chủ của các ngân hàng trên thế giới”, “hoàng đế tài chính của người Do Thái” hoặc “Nhà nước ngầm” đang nắm quyền kiểm soát thế giới và tài trợ cho các cuộc chiến tranh, xung đột và “cách mạng màu” để lật đổ các chính phủ không đáp ứng lợi ích của họ.

Lịch sử hình thành và phát triển của Rothschild

Tên tuổi nhiều gia tộc tài phiệt của người Do Thái gắn liền với thành phố Frankfurt on Main của nước Đức. Gia tộc Rothschild cũng không phải là ngoại lệ. Từ cuối thế kỷ XVII, Frankfurt on Main là trung tâm tài chính quan trọng nhất ở nước Đức và có quan hệ thương mại chặt chẽ với các thành phố lớn khác của châu Âu.

Ở Frankfurt on Main có sàn giao dịch chứng khoán lâu đời hàng đầu thế giới. Từ thế kỷ XVI, các giao dịch lớn bằng cổ phiếu đã được thực hiện tại các hội chợ Frankfurt. Đến thế kỷ XVIII, người Do Thái gần như độc quyền buôn bán kim loại quý, kim cương và các loại hàng xa xỉ ở châu Âu, mang lại cho họ đòn bẩy ảnh hưởng đối với tầng lớp quý tộc.

Sự hiện diện của người Do Thái trong hệ thống tài chính châu Âu thu hút sự chú ý đặc biệt sau cuộc Chiến tranh Napoleon (1803 - 1815) bởi sau cuộc chiến này đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ của gia tộc Rothschild.
Người sáng lập gia tộc Rothschild là Mayer Amschel, sinh năm 1743 tại khu ổ chuột dành cho người Do Thái ở Frankfurt on Main. Cha của Mayer Amschel là Amschel Moses Bauer - người quản lý một văn phòng đổi tiền được trang trí bằng một biểu tượng dưới dạng chiếc khiên màu đỏ khắc hình ảnh con đại bàng được mạ vàng.

Vì thế, về sau Mayer Amschel chọn từ Rothschild để đặt tên cho dòng họ của ông, có nghĩa là “chiếc khiên màu đỏ”. Từ đó, tên của Mayer Amschel được đổi thành Mayer Rothschild.

Năm lên 12 tuổi, Mayer Rothschild đến thành phố Hanover và bắt đầu học việc tại ngân hàng Oppenheimer - một gia tộc ngân hàng của người Do Thái. Khi trở về Frankfurt on Main, Mayer Rothschild bắt đầu sự nghiệp bằng hoạt động kinh doanh tiền đúc từ kim loại quý và đồ cổ, chủ yếu là huân, huy chương cổ.

Vì vậy, có giả thuyết cho rằng, tài sản kếch sù của gia tộc Rothschild bắt nguồn từ hoạt động kinh doanh tiền đúc. Từ năm 1764, Mayer Rothschild bắt đầu cung cấp tiền xu và vàng cho Hoàng đế William IX và Bá tước Hesse-Kassel - một trong những vị quân chủ giàu nhất châu Âu thời bấy giờ.

Từ năm 1769, Mayer Rothschild trở thành chủ một ngân hàng tư nhân và là nhà cung cấp tài chính chủ yếu cho gia tộc Hesse-Kassel.

Bộ luật gia tộc Rothschild do Mayer Amschel soạn thảo Mayer Rothschild là chủ nhân đầu tiên của gia tộc Rothschild. Để duy trì và phát triển gia tộc, Mayer Rothschild soạn thảo bộ luật gia tộc gồm 5 điều.

Điều 1, chỉ giao quyền quản lý doanh nghiệp cho các thành viên trong gia tộc. Chỉ có nam nhân mới được tham gia kinh doanh và chỉ có nam nhân trực hệ mới có quyền được thừa kế.

Con trai cả trong các gia đình của gia tộc là chủ nhân của gia đình có quyền ra quyết định trên cơ sở đồng thuận của các thành viên khác.

Điều 2, nam nhân chỉ được phép kết hôn với chị em họ thế hệ thứ hai để tài sản tích luỹ được và tên tuổi chỉ thuộc về gia tộc và phục vụ cho sự nghiệp chung của gia tộc. Nữ nhân chỉ được phép kết hôn với giới quý tộc và vẫn duy trì đức tin của mình là Do Thái giáo.

Điều 3, không được phép kê khai tài sản của gia đình, cũng không được tiết lộ quy mô tài sản, kể cả trong trường hợp phải ra hầu tòa. Tranh chấp giữa anh em chỉ được giải quyết trong nội bộ gia đình.

Điều 4, các thành viên trong gia tộc sống hòa thuận, tin tưởng và yêu thương nhau, cùng chia sẻ lợi nhuận một cách bình đẳng.

Điều 5, các thành viên gia tộc duy trì lối sống khiêm tốn, tiết kiệm bởi đây là một trong những yếu tố làm nên sự giàu có.

Điều 6, quyền lãnh đạo gia tộc được trao cho thành viên nào có năng lực hơn tất cả trong việc làm giàu cho gia tộc mà không phụ thuộc vào thâm niên hành nghề hay tuổi tác. Nhờ sự tập trung quyền lực này mà gia tộc Rothschild đã vượt qua mọi cuộc khủng hoảng trên thị trường chứng khoán.

Các thành viên thế hệ đầu tiên của gia tộc Rothschild

Mayer Rothschild là người đặt nền móng cho khối tài sản khổng lồ của Rothschild và có 5 con trai được đặt tên là Amschel, Solomon, Nathan, Karl, James, tất cả đều mang họ Rothschild.

Chính các con trai của Mayer Rothschild đã nhân số tài sản của gia tộc lên gấp hàng nghìn lần, trong đó có 2 người kiểm soát 5 ngân hàng ở các thành phố lớn nhất châu Âu. Amschel Rothschild - con trai cả của Mayer Rothschild - đứng đầu ngân hàng ở Frankfurt on Main năm 1812, sau khi cha ông qua đời.

undefined
Gia đình Rothschild.

Về sau, do Amschel Rothschild không có con nên sau khi ông qua đời, quyền quản lý ngân hàng được chuyển cho các cháu trai của ông. Nathan Rothschild mở một doanh nghiệp ở London - nơi ông thành lập ngân hàng N. M. Rothschild & Sons vào năm 1811. Năm 1814, ngân hàng này tài trợ cho cuộc chiến chống lại Napoleon.

Năm 1816, Solomon Rothschild mở một ngân hàng ở Vienna và là người thành lập chi nhánh Rothschilds ở Áo. Ông là nhà công nghiệp và là chủ đất lớn nhất ở Áo, sở hữu các mỏ than ở Vitkovica và một nhà máy sản xuất nhựa đường ở Dalmatia.

Trái với bộ luật của gia tộc, Nathan Rothschild kết hôn với Chana Cohen - con gái của tỷ phú Barent Cohen và là người Do Thái giàu nhất châu Âu thời bấy giờ. Con trai Nathan Rothschild là Lionel Rothschild tiếp tục mở rộng đế chế tài chính của gia đình. Một chi tiết khá thú vị là Karl Marx - người sáng lập chủ nghĩa Marx xuất thân từ gia đình bên ngoại của Barent Cohen.

Chính gia tộc Rothschild xây dựng đế chế tài chính ở Anh, phần lớn dựa vào vị thế của các nhà tài phiệt gốc Do Thái có quan hệ họ hàng thân thiết. Gia tộc Rothschild nhanh chóng phát huy ảnh hưởng rất lớn trong giới tài chính Anh. Chính Nathan Rothschild là nhà tài trợ chủ yếu để thành lập Ngân hàng Anh trong 2 năm 1825 - 1826.

Năm 1885, con trai của Nathan Rothschild là Nathaniel Rothschild trở thành huân tước và là người Do Thái đầu tiên được gia nhập câu lạc bộ các huân tước của nước Anh. Thủ tướng Anh David Lloyd George gọi Nathaniel Rothschild là người đàn ông quyền lực nhất nước Anh vào năm 1909.

Karl Rothschild - con trai thứ tư của Mayer Rothschild - mở ngân hàng ở Naples và trở thành người đứng đầu chi nhánh Naples của gia tộc Rothschild và trở thành chủ ngân hàng của Giáo hoàng và Vương quốc xứ Sicilia.
Con trai út James Rothschild khởi đầu kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng ở Paris và thành lập công ty kinh doanh De Rothschild Freres. Ông là một trong những nhà tài trợ cho các nhà cách mạng thế kỷ XIX, trở thành đồng minh của Mỹ và là bạn thân của Tổng thống Abraham Lincoln.

James Rothschild từng tuyên bố: “vũ khí đích thực không được cất giữ trong kho trang bị của các bộ trưởng chiến tranh ngu ngốc mà là trong ngân hàng của tôi”.

Tài sản của Rothschild

Gia tộc Rothschild tuân thủ rất nghiêm ngặt các điều luật của triều đại này và không tiết lộ quy mô tài sản của mình. Theo ước tính thận trọng của giới phân tích tài chính, tính đến năm 2024 tài sản của gia tộc Rothschild có thể vượt quá 3.500 tỷ USD.

Ngoài khối tài sản khổng lồ bằng USD này, gia tộc Rothschild còn sở hữu khối tài sản vô hình có giá trị không kém. Đó là tài nguyên thông tin. Từ những năm đầu thập niên thế kỷ XIX, gia tộc Rothschild đã tạo ra mạng lưới đại lý và bộ máy thông tin nhanh nhạy nhất thế giới.

Họ là những người đầu tiên biết được mọi chuyện đang diễn ra ở thủ đô các nước trên thế giới và thu về bội tiền trên sàn giao dịch chứng khoán. Gia tộc Rothschilds thu thập thông tin về các đối thủ cạnh tranh trên thị trường bằng mọi cách mà pháp luật không cấm.

Nathan Rothschild từng tuyên bố: “ai sở hữu thông tin sẽ kiểm soát thế giới”. Chính Nathan Rothschild là người biết trước Napoleon sẽ đại bại ở trận Waterloo. Với thông tin này, ông kiếm được 40 triệu bảng Anh trên sàn giao dịch chứng khoán.

Gia tộc Rothschilds ở Nga

Từ thế kỷ XIX, gia tộc Rothschild theo đuổi mục tiêu chính ở Nga là thiết lập quyền kiểm soát các mỏ dầu ở Baku. Từ năm 1886, Ngân hàng Rothschild Brothers sở hữu cổ phần của Công ty thương mại và công nghiệp dầu mỏ Biển Đen - Caspian và bắt đầu tham gia tích cực vào việc phát triển ngành công nghiệp dầu mỏ ở vùng Caucasus. Rothschild từng tài trợ cho các dự án xây dựng tuyến đường sắt Baku - Batumi.

Từ năm 1887, họ độc quyền vận chuyển dầu mỏ từ Azerbaizan. Đến năm 1890, Rothschild kiểm soát 42% lượng dầu xuất khẩu từ Baku. Công ty dầu mỏ Rothschild thuê tàu chở dầu để vận chuyển qua kênh đào Suez và kiểm soát dầu từ Baku tới thị trường trên khắp các châu lục. Gia tộc Rothschild mua tàu chở dầu trên biển Caspian và xà lan chở dầu trên sông Volga.

Cuộc cách mạng năm 1905 ở Nga châm ngòi cho cuộc khủng hoảng trong ngành sản xuất dầu mỏ do các cuộc đình công, đốt phá các cơ sở sản xuất dầu, làm tê liệt hoạt động sản xuất và xuất khẩu dầu của Rothschild sang châu Âu.

Năm 1912, dự đoán trước cuộc cách mạng sẽ bùng nổ vào năm 1917, Rothschild quyết định ngừng kinh doanh dầu mỏ ở Nga và bán tất cả tài sản ở Nga cho Công ty Royal Dutch Shell của Anh - Hà Lan.

Trong kỷ nguyên Chiến tranh lạnh, gia tộc Rothschilds từng tài trợ cho các dự án nhằm làm tan rã Liên Xô. Chính Rothschild tài trợ cho chiến dịch bí mật đưa Mikhail Gorbachev lên cầm quyền và tiến hành công cuộc “cải tổ” và phong trào ly khai trong các nước cộng hòa thuộc Liên Xô.

Vai trò của “nhà nước ngầm” Rothschild

Gia tộc Rothschild đứng đằng sau các dự án chính trị có ý nghĩa toàn cầu. Karl Marx và V. I. Lênin đều cho rằng, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Là đế chế tài chính - ngân hàng lớn bậc nhất thế giới, Rothschild có ảnh hưởng đến các dự án chính trị có tác dụng làm thay đổi thế giới.

Dự án hình thành “nhà nước toàn cầu”. Gia tộc Rothschild chủ trương cùng với các tập đoàn tài phiệt Mỹ, đứng đầu là các tập đoàn tài phiệt Rockefeller và Morgan, thành lập “nhà nước toàn cầu” để giành quyền kiểm soát thế giới thông qua các công cụ tài chính.

Theo chủ trương đó, họ nỗ lực biến quá trình toàn cầu hóa sau Chiến tranh lạnh thành quá trình “Mỹ hóa thế giới” thông qua vai trò độc tôn của đồng USD, Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF).

Dự án xây dựng trật tự thế giới mới đơn cực sau Chiến tranh lạnh. Trật tự thế giới mới là chủ trương của Rothschild và các tập đoàn tài phiệt Mỹ thiết lập các công cụ xuyên quốc gia để giành quyền kiểm soát thế giới sau khi Liên Xô tan rã và trật tự thế giới đơn cực sụp đổ.

Dự án thành lập câu lạc bộ các tỷ phú vàng. Đây là câu lạc bộ của các nước phát triển kinh tế hàng đầu ở phương Tây với tổng dân số khoảng 1 tỷ người coi phần còn lại của thế giới chỉ là nguồn tài nguyên làm giàu cho họ.

Đối với giới tinh hoa của câu lạc bộ tỷ phú vàng, các nước phát triển cao ở phương Tây là “vườn địa đàng”, phần còn lại của thế giới là bãi thải công nghiệp, đồng thời duy trì quyền kiểm soát thế giới ngoài phương Tây trong trạng thái “hỗn loạn có kiểm soát”. Chính vì thế, chiến tranh, xung đột, khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia,... bùng phát với tần suất ngày càng lớn.

Dự án tài trợ cho các cuộc “cách mạng màu”. Gia tộc Rothschild là nhà tài trợ chủ yếu cho các cuộc “cách mạng màu” và đảo chính vũ trang ở châu Phi, Georgia, Kyrgyzstan, Trung Đông, Ukraina và nhiều quốc gia khác.

Trong đó, gia tộc Rothschild chọn ra tổng thống và thủ tướng của nhiều nước và khi cần sẽ loại bỏ họ. Rothschilds cũng là nhà tài trợ cho tiến trình Brexit đưa Anh rút khỏi EU./.

Nội dung Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

rewind
play
fast-forward
00:00
/
00:00
Giải mã bí mật gia tộc Rothschild khuynh đảo thế giới

Giải mã bí mật gia tộc Rothschild khuynh đảo thế giới

“Giải mã bí mật gia tộc Rothschild khuynh đảo thế giới” là nhan đề bài viết theo Chuyên trang Hồ sơ sự kiện được đăng tải trên Tạp chí Cộng sản, là bài Podcast mà chúng tôi muốn gửi đến quý vị ngày hôm nay. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Gia tộc Rothschild là “triều đại” ngân hàng - tài chính của các tỷ phú gốc Do Thái giàu hàng đầu thế giới. Báo chí gọi Rothschild bằng những cái tên khác nhau như “chủ của các ngân hàng trên thế giới”, “hoàng đế tài chính của người Do Thái” hoặc “Nhà nước ngầm” đang nắm quyền kiểm soát thế giới và tài trợ cho các cuộc chiến tranh, xung đột và “cách mạng màu” để lật đổ các chính phủ không đáp ứng lợi ích của họ.

Lịch sử hình thành và phát triển của Rothschild

Tên tuổi nhiều gia tộc tài phiệt của người Do Thái gắn liền với thành phố Frankfurt on Main của nước Đức. Gia tộc Rothschild cũng không phải là ngoại lệ. Từ cuối thế kỷ XVII, Frankfurt on Main là trung tâm tài chính quan trọng nhất ở nước Đức và có quan hệ thương mại chặt chẽ với các thành phố lớn khác của châu Âu.

Ở Frankfurt on Main có sàn giao dịch chứng khoán lâu đời hàng đầu thế giới. Từ thế kỷ XVI, các giao dịch lớn bằng cổ phiếu đã được thực hiện tại các hội chợ Frankfurt. Đến thế kỷ XVIII, người Do Thái gần như độc quyền buôn bán kim loại quý, kim cương và các loại hàng xa xỉ ở châu Âu, mang lại cho họ đòn bẩy ảnh hưởng đối với tầng lớp quý tộc.

Sự hiện diện của người Do Thái trong hệ thống tài chính châu Âu thu hút sự chú ý đặc biệt sau cuộc Chiến tranh Napoleon (1803 - 1815) bởi sau cuộc chiến này đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ của gia tộc Rothschild.
Người sáng lập gia tộc Rothschild là Mayer Amschel, sinh năm 1743 tại khu ổ chuột dành cho người Do Thái ở Frankfurt on Main. Cha của Mayer Amschel là Amschel Moses Bauer - người quản lý một văn phòng đổi tiền được trang trí bằng một biểu tượng dưới dạng chiếc khiên màu đỏ khắc hình ảnh con đại bàng được mạ vàng.

Vì thế, về sau Mayer Amschel chọn từ Rothschild để đặt tên cho dòng họ của ông, có nghĩa là “chiếc khiên màu đỏ”. Từ đó, tên của Mayer Amschel được đổi thành Mayer Rothschild.

Năm lên 12 tuổi, Mayer Rothschild đến thành phố Hanover và bắt đầu học việc tại ngân hàng Oppenheimer - một gia tộc ngân hàng của người Do Thái. Khi trở về Frankfurt on Main, Mayer Rothschild bắt đầu sự nghiệp bằng hoạt động kinh doanh tiền đúc từ kim loại quý và đồ cổ, chủ yếu là huân, huy chương cổ.

Vì vậy, có giả thuyết cho rằng, tài sản kếch sù của gia tộc Rothschild bắt nguồn từ hoạt động kinh doanh tiền đúc. Từ năm 1764, Mayer Rothschild bắt đầu cung cấp tiền xu và vàng cho Hoàng đế William IX và Bá tước Hesse-Kassel - một trong những vị quân chủ giàu nhất châu Âu thời bấy giờ.

Từ năm 1769, Mayer Rothschild trở thành chủ một ngân hàng tư nhân và là nhà cung cấp tài chính chủ yếu cho gia tộc Hesse-Kassel.

Bộ luật gia tộc Rothschild do Mayer Amschel soạn thảo Mayer Rothschild là chủ nhân đầu tiên của gia tộc Rothschild. Để duy trì và phát triển gia tộc, Mayer Rothschild soạn thảo bộ luật gia tộc gồm 5 điều.

Điều 1, chỉ giao quyền quản lý doanh nghiệp cho các thành viên trong gia tộc. Chỉ có nam nhân mới được tham gia kinh doanh và chỉ có nam nhân trực hệ mới có quyền được thừa kế.

Con trai cả trong các gia đình của gia tộc là chủ nhân của gia đình có quyền ra quyết định trên cơ sở đồng thuận của các thành viên khác.

Điều 2, nam nhân chỉ được phép kết hôn với chị em họ thế hệ thứ hai để tài sản tích luỹ được và tên tuổi chỉ thuộc về gia tộc và phục vụ cho sự nghiệp chung của gia tộc. Nữ nhân chỉ được phép kết hôn với giới quý tộc và vẫn duy trì đức tin của mình là Do Thái giáo.

Điều 3, không được phép kê khai tài sản của gia đình, cũng không được tiết lộ quy mô tài sản, kể cả trong trường hợp phải ra hầu tòa. Tranh chấp giữa anh em chỉ được giải quyết trong nội bộ gia đình.

Điều 4, các thành viên trong gia tộc sống hòa thuận, tin tưởng và yêu thương nhau, cùng chia sẻ lợi nhuận một cách bình đẳng.

Điều 5, các thành viên gia tộc duy trì lối sống khiêm tốn, tiết kiệm bởi đây là một trong những yếu tố làm nên sự giàu có.

Điều 6, quyền lãnh đạo gia tộc được trao cho thành viên nào có năng lực hơn tất cả trong việc làm giàu cho gia tộc mà không phụ thuộc vào thâm niên hành nghề hay tuổi tác. Nhờ sự tập trung quyền lực này mà gia tộc Rothschild đã vượt qua mọi cuộc khủng hoảng trên thị trường chứng khoán.

Các thành viên thế hệ đầu tiên của gia tộc Rothschild

Mayer Rothschild là người đặt nền móng cho khối tài sản khổng lồ của Rothschild và có 5 con trai được đặt tên là Amschel, Solomon, Nathan, Karl, James, tất cả đều mang họ Rothschild.

Chính các con trai của Mayer Rothschild đã nhân số tài sản của gia tộc lên gấp hàng nghìn lần, trong đó có 2 người kiểm soát 5 ngân hàng ở các thành phố lớn nhất châu Âu. Amschel Rothschild - con trai cả của Mayer Rothschild - đứng đầu ngân hàng ở Frankfurt on Main năm 1812, sau khi cha ông qua đời.

undefined
Gia đình Rothschild.

Về sau, do Amschel Rothschild không có con nên sau khi ông qua đời, quyền quản lý ngân hàng được chuyển cho các cháu trai của ông. Nathan Rothschild mở một doanh nghiệp ở London - nơi ông thành lập ngân hàng N. M. Rothschild & Sons vào năm 1811. Năm 1814, ngân hàng này tài trợ cho cuộc chiến chống lại Napoleon.

Năm 1816, Solomon Rothschild mở một ngân hàng ở Vienna và là người thành lập chi nhánh Rothschilds ở Áo. Ông là nhà công nghiệp và là chủ đất lớn nhất ở Áo, sở hữu các mỏ than ở Vitkovica và một nhà máy sản xuất nhựa đường ở Dalmatia.

Trái với bộ luật của gia tộc, Nathan Rothschild kết hôn với Chana Cohen - con gái của tỷ phú Barent Cohen và là người Do Thái giàu nhất châu Âu thời bấy giờ. Con trai Nathan Rothschild là Lionel Rothschild tiếp tục mở rộng đế chế tài chính của gia đình. Một chi tiết khá thú vị là Karl Marx - người sáng lập chủ nghĩa Marx xuất thân từ gia đình bên ngoại của Barent Cohen.

Chính gia tộc Rothschild xây dựng đế chế tài chính ở Anh, phần lớn dựa vào vị thế của các nhà tài phiệt gốc Do Thái có quan hệ họ hàng thân thiết. Gia tộc Rothschild nhanh chóng phát huy ảnh hưởng rất lớn trong giới tài chính Anh. Chính Nathan Rothschild là nhà tài trợ chủ yếu để thành lập Ngân hàng Anh trong 2 năm 1825 - 1826.

Năm 1885, con trai của Nathan Rothschild là Nathaniel Rothschild trở thành huân tước và là người Do Thái đầu tiên được gia nhập câu lạc bộ các huân tước của nước Anh. Thủ tướng Anh David Lloyd George gọi Nathaniel Rothschild là người đàn ông quyền lực nhất nước Anh vào năm 1909.

Karl Rothschild - con trai thứ tư của Mayer Rothschild - mở ngân hàng ở Naples và trở thành người đứng đầu chi nhánh Naples của gia tộc Rothschild và trở thành chủ ngân hàng của Giáo hoàng và Vương quốc xứ Sicilia.
Con trai út James Rothschild khởi đầu kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng ở Paris và thành lập công ty kinh doanh De Rothschild Freres. Ông là một trong những nhà tài trợ cho các nhà cách mạng thế kỷ XIX, trở thành đồng minh của Mỹ và là bạn thân của Tổng thống Abraham Lincoln.

James Rothschild từng tuyên bố: “vũ khí đích thực không được cất giữ trong kho trang bị của các bộ trưởng chiến tranh ngu ngốc mà là trong ngân hàng của tôi”.

Tài sản của Rothschild

Gia tộc Rothschild tuân thủ rất nghiêm ngặt các điều luật của triều đại này và không tiết lộ quy mô tài sản của mình. Theo ước tính thận trọng của giới phân tích tài chính, tính đến năm 2024 tài sản của gia tộc Rothschild có thể vượt quá 3.500 tỷ USD.

Ngoài khối tài sản khổng lồ bằng USD này, gia tộc Rothschild còn sở hữu khối tài sản vô hình có giá trị không kém. Đó là tài nguyên thông tin. Từ những năm đầu thập niên thế kỷ XIX, gia tộc Rothschild đã tạo ra mạng lưới đại lý và bộ máy thông tin nhanh nhạy nhất thế giới.

Họ là những người đầu tiên biết được mọi chuyện đang diễn ra ở thủ đô các nước trên thế giới và thu về bội tiền trên sàn giao dịch chứng khoán. Gia tộc Rothschilds thu thập thông tin về các đối thủ cạnh tranh trên thị trường bằng mọi cách mà pháp luật không cấm.

Nathan Rothschild từng tuyên bố: “ai sở hữu thông tin sẽ kiểm soát thế giới”. Chính Nathan Rothschild là người biết trước Napoleon sẽ đại bại ở trận Waterloo. Với thông tin này, ông kiếm được 40 triệu bảng Anh trên sàn giao dịch chứng khoán.

Gia tộc Rothschilds ở Nga

Từ thế kỷ XIX, gia tộc Rothschild theo đuổi mục tiêu chính ở Nga là thiết lập quyền kiểm soát các mỏ dầu ở Baku. Từ năm 1886, Ngân hàng Rothschild Brothers sở hữu cổ phần của Công ty thương mại và công nghiệp dầu mỏ Biển Đen - Caspian và bắt đầu tham gia tích cực vào việc phát triển ngành công nghiệp dầu mỏ ở vùng Caucasus. Rothschild từng tài trợ cho các dự án xây dựng tuyến đường sắt Baku - Batumi.

Từ năm 1887, họ độc quyền vận chuyển dầu mỏ từ Azerbaizan. Đến năm 1890, Rothschild kiểm soát 42% lượng dầu xuất khẩu từ Baku. Công ty dầu mỏ Rothschild thuê tàu chở dầu để vận chuyển qua kênh đào Suez và kiểm soát dầu từ Baku tới thị trường trên khắp các châu lục. Gia tộc Rothschild mua tàu chở dầu trên biển Caspian và xà lan chở dầu trên sông Volga.

Cuộc cách mạng năm 1905 ở Nga châm ngòi cho cuộc khủng hoảng trong ngành sản xuất dầu mỏ do các cuộc đình công, đốt phá các cơ sở sản xuất dầu, làm tê liệt hoạt động sản xuất và xuất khẩu dầu của Rothschild sang châu Âu.

Năm 1912, dự đoán trước cuộc cách mạng sẽ bùng nổ vào năm 1917, Rothschild quyết định ngừng kinh doanh dầu mỏ ở Nga và bán tất cả tài sản ở Nga cho Công ty Royal Dutch Shell của Anh - Hà Lan.

Trong kỷ nguyên Chiến tranh lạnh, gia tộc Rothschilds từng tài trợ cho các dự án nhằm làm tan rã Liên Xô. Chính Rothschild tài trợ cho chiến dịch bí mật đưa Mikhail Gorbachev lên cầm quyền và tiến hành công cuộc “cải tổ” và phong trào ly khai trong các nước cộng hòa thuộc Liên Xô.

Vai trò của “nhà nước ngầm” Rothschild

Gia tộc Rothschild đứng đằng sau các dự án chính trị có ý nghĩa toàn cầu. Karl Marx và V. I. Lênin đều cho rằng, chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế. Là đế chế tài chính - ngân hàng lớn bậc nhất thế giới, Rothschild có ảnh hưởng đến các dự án chính trị có tác dụng làm thay đổi thế giới.

Dự án hình thành “nhà nước toàn cầu”. Gia tộc Rothschild chủ trương cùng với các tập đoàn tài phiệt Mỹ, đứng đầu là các tập đoàn tài phiệt Rockefeller và Morgan, thành lập “nhà nước toàn cầu” để giành quyền kiểm soát thế giới thông qua các công cụ tài chính.

Theo chủ trương đó, họ nỗ lực biến quá trình toàn cầu hóa sau Chiến tranh lạnh thành quá trình “Mỹ hóa thế giới” thông qua vai trò độc tôn của đồng USD, Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF).

Dự án xây dựng trật tự thế giới mới đơn cực sau Chiến tranh lạnh. Trật tự thế giới mới là chủ trương của Rothschild và các tập đoàn tài phiệt Mỹ thiết lập các công cụ xuyên quốc gia để giành quyền kiểm soát thế giới sau khi Liên Xô tan rã và trật tự thế giới đơn cực sụp đổ.

Dự án thành lập câu lạc bộ các tỷ phú vàng. Đây là câu lạc bộ của các nước phát triển kinh tế hàng đầu ở phương Tây với tổng dân số khoảng 1 tỷ người coi phần còn lại của thế giới chỉ là nguồn tài nguyên làm giàu cho họ.

Đối với giới tinh hoa của câu lạc bộ tỷ phú vàng, các nước phát triển cao ở phương Tây là “vườn địa đàng”, phần còn lại của thế giới là bãi thải công nghiệp, đồng thời duy trì quyền kiểm soát thế giới ngoài phương Tây trong trạng thái “hỗn loạn có kiểm soát”. Chính vì thế, chiến tranh, xung đột, khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia,... bùng phát với tần suất ngày càng lớn.

Dự án tài trợ cho các cuộc “cách mạng màu”. Gia tộc Rothschild là nhà tài trợ chủ yếu cho các cuộc “cách mạng màu” và đảo chính vũ trang ở châu Phi, Georgia, Kyrgyzstan, Trung Đông, Ukraina và nhiều quốc gia khác.

Trong đó, gia tộc Rothschild chọn ra tổng thống và thủ tướng của nhiều nước và khi cần sẽ loại bỏ họ. Rothschilds cũng là nhà tài trợ cho tiến trình Brexit đưa Anh rút khỏi EU./.

Nội dung Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Chợ Bưởi một tháng sáu phiên

Chợ Bưởi một tháng sáu phiên

Cho đến bây giờ, ven nội thành cũ ở Hà Nội, chỉ còn có 2 chợ còn mang chút dấu ấn xưa cũ và còn giữ lệ họp theo phiên. Đó là chợ Mơ ở phía Nam , họp vào ngày 2, ngày 7 và chợ Bưởi ở phía Tây Bắc, họp vào ngày 4, ngày 9. Tuy nhiên, từ ngày cả 2 ngôi chợ này được xây dựng thành trung tâm thương mại, thì phong vị xưa cũng mai một đi nhiều, chỉ là còn chút nét xưa rơi rớt

Chợ Bưởi một tháng sáu phiên

Vào những năm cuối của thế kỷ 20, người Hà Nội cứ mở cửa ra đường, chưa cần đi tới chợ là đã có thể cùng lúc mua được hàng trăm loại mặt hàng khác nhau, từ mớ rau con cá cho đến cả áo quần, mũ nón. Nhưng vẫn có những thứ mà hễ cần đến, thì cứ nhất định phải đợi tới 6 ngày nhất định trong tháng âm lịch, đánh một chuyến lên chơi chợ Bưởi.

undefined
Chợ Bưởi.

Ông Nguyễn Văn Biên, người ở phường Dịch Vọng quận Cầu Giấy loay hoay trở đi trở lại bên mấy lồng thỏ con hồng hồng, xam xám. Vườn nhà rộng, lũ trẻ lại thích nuôi con gì là lạ, khác khác với gà vịt, ngan ngỗng, chó lợn. Vậy thì chỉ có con thỏ là hay nhất, lũ trẻ lại có thể chơi được với chúng. Nên hôm nay nhất định phải kiếm được một đôi.

Anh Hoàng Mạnh Hùng nhà ở trong khu phố cổ quận Hoàn Kiếm thì tha thẩn bên mấy hàng cây hoa cảnh, trên tay đã cầm sẵn một gốc hoa lý đỏ, thứ hoa leo giàn không rụng lá theo mùa, lại nở bông đúng vào dịp Tết Nguyên Đán cổ truyền. Thứ cây này mới xuất hiện ở Hà Nội chừng mươi năm, gây trồng hơi khó, nên các hàng rong trên phố không sẵn. Chỉ có lên chợ Bưởi đặt hàng mới có. Cây ở chợ Bưởi vừa rẻ vừa hợp ý hơn hẳn ở các hàng rong trên phố.

Cho đến bây giờ, ở Hà Nội, chỉ còn có 2 chợ còn mang dấu ấn xưa cũ và còn giữ lệ họp theo phiên. Đó là chợ Mơ ở phía Nam thành phố, họp vào ngày 2, ngày 7 và chợ Bưởi ở phía Tây Bắc thành phố họp vào ngày 4, ngày 9.

Ca dao Hà Nội cổ có câu: Chợ Bưởi một tháng sáu phiên / Ngày tư, ngày chín cho duyên đèo bòng.

Ngày xửa ngày xưa, chợ Bưởi vốn đã được định vị ở nơi đây trên đất làng Yên Thái ở bờ Tây Nam của Hồ Tây. Chợ nằm ở trung tâm của vùng Kẻ Bưởi cũ, giữa một vùng làng nghề thủ công làm giấy, dệt lụa, dệt lĩnh, nấu nha, nuôi lợn, trồng dâu...

Kẻ Bưởi gồm gần chục làng mang tên Nghĩa Đô, Trung Nha, Vạn Long, Bái Ân, Yên Thái, Võng Thị, Trích Sài, Đông Xã, Hồ Khẩu...

Chợ Bưởi nằm bên chốn hợp lưu giữa 2 con sông tự nhiên Tô Lịch và Thiên Phù, nên thuận lợi trong việc giao lưu buôn bán trên bến dưới thuyền. Chợ lại nằm kề vòng tường thành bao quanh kinh đô Thăng Long, nên dân cư tập trung qua lại khá đông đúc. Người xưa có câu, "nhất cận thị, nhị cận giang" là thế.

Đặc sản chợ Bưởi

Chợ Bưởi tự xưa vốn là nơi buôn bán hàng hoá của dân các làng nghề trong vùng. Theo các thư tịch cũ còn lại. Chợ Bưởi từng có tới 15 gian hàng bán buôn các loại giấy do dân các làng nghề Kẻ Bưởi làm ra. Đó là giấy bản của làng Yên Thái, giấy moi của làng Hồ Khẩu, giấy quỳ của làng Đông Xã, giấy xề của làng Yên Hoà. Nhưng cho đến bây giờ thì chị Ba, một người hàng giấy thật thà bộc bạch:

- Tôi là con gái làng Bưởi, bán hàng ở chợ cũng đã lâu, nhưng làng Bưởi bây giờ chẳng còn mấy nhà làm giấy, giấy này tôi phải ra chợ Đồng Xuân cất về.

Cô hàng trẻ tuổi kế bên thì nhanh nhảu:

- Giấy này không phải giấy Bưởi chị ạ, mà là giấy Bắc Ninh. Giấy Bưởi thì khổ rộng hơn và mặt mịn hơn. Nhiều người vẫn hỏi, nhưng không hiểu tại sao dân trong làng không làm nữa.

Tuy nhiên, cũng không hẳn là nghề làm giấy ở vùng này đã mất hẳn. Bằng cớ là tại chợ, ở gian hàng sắt, vẫn thấy người ta bầy bán những con dao xén giấy đặc chủng sắc như nước, hình cong cong tựa một chiếc hái lúa và một số dụng cụ chuyên dụng khác như liềm xeo giấy, thép can giấy do người làng Xuân Đỉnh ở phía Bắc Hồ Tây đem về hoặc các loại khung phơi, sọt, sề, rổ rá, thúng từ các làng Cổ Nhuế (Từ Liêm) đem xuống, hay các làng Văn Quán (Phú Xuyên), Tự Khoát (Thanh Trì) đem lên. Trong làng duy chỉ còn vài cơ sở làm giấy nhuộm màu cho các nhà làm hàng mã hay học sinh dùng làm thủ công và giấy vệ sinh các loại.

Ở chợ Bưởi, còn có các hàng nông cụ phục vụ cho bà con nông dân các vùng xung quanh. Những là cuốc cày, xén hái, mai thuổng... màu thép loáng lên xanh ngời trong ánh nắng. Song xem ra người mua cũng thưa thớt...

Chợ Bưởi trước đây còn là nơi đầu mối bán buôn các loại hàng lụa lĩnh của các làng nghề ven Hồ Tây thuộc vùng Kẻ Bưởi. Phương ngôn kẻ chợ có câu: "Lĩnh Hoa Yên Thái, đồ gốm Bát Tràng, thợ vàng Định Công, thợ đồng Ngũ Xã". Nhưng bây giờ đi cả chợ, bói cũng không ra một tấm lĩnh cổ truyền. Nghề dệt lĩnh Bưởi đã đi vào dĩ vãng từ những năm trước Cách mạng tháng 8 năm 1945. Bây giờ, khắp chợ tràn ngập vải vóc lụa là nhập từ nước ngoài về. Ngày xưa, chợ còn là nơi bán buôn các loại hàng hoá do dân trong vùng sản xuất như mạch nha An Phú, bánh kẹo Xuân Đỉnh, cốm Vòng (Dịch Vọng)... Bây giờ, những mặt hàng này cũng vẫn thấy bày bán loáng thoáng trong chợ, chưa mất hẳn bóng dáng.

Chợ Bưởi cũng còn là nơi mà bà con các vùng ven Hà Nội đem hàng nghề truyền thống đến bán buôn. Bây giờ, cứ đến ngày chợ phiên, ở phía cổng chợ lối lên xuống từ đường Hoàng Hoa Thám, người ta vẫn ngóng bóng bà bán kẹo bột làng Lủ (Thanh Trì) đầu trùm khăn mỏ quạ, răng nhuộm đen, miệng ăn trầu bỏm bẻn. Hai đầu quang gánh lỉnh kỉnh những là kẹo vừng, kẹo lạc, bỏng ngô, bỏng gạo bọc trong những tấm lá chuối khô chéo lạt rơm và lủng lẳng mấy xâu bánh men rượu như những mảnh trứng nhện trắng màu vôi bột, còn dính mươi mảnh vỏ trấu vàng ươm.

Ông hàng thừng chão Trung Văn (Từ Liêm) quần nâu áo cánh, quạt nan phành phạch ngồi giữa đám thừng sợi to nhỏ quấn vòng, tết vặn đủ các kiểu. Ông kể rằng:

- Chợ Bưởi cách đây dăm sáu chục năm trước chỉ có hai cầu chợ ngói. Còn thì đều là lều lán tạm. Còn sau hoà bình lập lại 1954 mới làm lại tất cả bốn năm cầu chợ. Cây bóng mát cũng mới trồng từ dạo ấy. Ngày xưa, tôi bán toàn thừng giang, thừng tre, thừng nứa, thừng đay, thừng gai... Nhưng bây giờ làng tôi làm cả thừng ni lông, thừng nhựa, vô khối!

Chợ Bưởi, theo tên gọi dân gian lâu đời vốn là chợ bán hoa quả, chủ yếu là hoa quả các làng trong vùng. Phương ngôn kẻ chợ có câu: Chợ Bưởi một tháng sáu phiên / Riêng đến tháng tám lại thêm phiên rằm / Ai ơi nhớ lấy kẻo lầm / Đi mua hoa quả chơi rằm trung thu.

Nhưng mà chợ Bưởi bây giờ, không chỉ có hồng, na, bưởi, chuối, nhãn, mà còn có đủ thức hoa quả trăm miền trên đất nước và cả hoa quả từ nước ngoài đem về như táo Mỹ, xoài Thái, mận Úc... và cơ man nào là hàng hoa quả Trung Quốc, cứ vàng tím, đỏ xanh khắp các dãy hàng. Và rồi thì ngay cả đến tivi, cát sét, máy vi tính cũng đầy rẫy, sáng choang.

Ở chợ Bưởi, người ta có thể lựa mua được những thứ rau quả tươi ngon còn thấm đẫm sương đêm mới được cất về từ những làng rau chuyên canh ven sông Tô và sông Nhuệ, hay kể cả các loại rau quả đặc sản của các vùng trên đất nước. Và cũng ở chợ Bưởi, các loại cá tôm tươi rói như thể vừa được cất lưới từ mặt nước Hồ Tây hay đưa từ các lồng cá trên sông Nhuệ, các thuyền cá trên sông Hồng đem về.

Những mặt hàng tươi sống ở chợ Bưởi hình như có rẻ hơn ở các chợ trong trung tâm thành phố chừng vài ba giá. Có lẽ do bà con nông dân lên đây đỡ được một vài đoạn đường xa, và thuế má ở chợ nghe chừng cũng có nhẹ nhàng hơn.

Chợ Bưởi - Chợ cây giống

Một trong những mặt hàng đặc sắc ở chợ Bưởi là cây giống các loại từ các làng trồng hoa cây cảnh cổ truyền ven hồ Tây như Yên Phụ, Nghi Tàm, Quảng Bá, Nhật Tân hoặc các xã vùng rau hoa như Tây Tựu, Phú Thượng đem về vào các buổi chợ phiên. Số lượng các mặt hàng cây hoa giống tăng lên gấp hàng chục lần so với ngày thường. Người dân nội thành bây giờ nhà cửa khang trang hơn nhiều. Họ thường tìm lên đây tầm mua vài khóm thiên lý, lan tiêu, bìm bìm, tầm xuân, ti gôn, đai vàng. Các loại cây trồng chậu như: địa lan, thiết mộc lan, ngũ gia bì, mai tứ quý, sen cạn, vàng anh, xoan táo, đinh lăng, đuôi lươn, mỏ vịt...

Các loại cây hoa đẹp như hồng, huệ, nhài, tường vi, dâm bụt, trinh nữ, cẩm tú cầu... trăm thức khác nhau, mỗi thứ một vẻ. Thậm chí, muốn tìm mấy giống cây ăn quả, hay những cây bóng mát loại lớn, người Hà Nội cũng chỉ tìm lên chợ Bưởi. Nào là ngọc lan, hoàng lan, bằng lăng, gạo gai, phượng vĩ. Rồi các giống cây ăn quả đặc sản như hồng Xiêm Xuân Đỉnh, cam Canh, bưởi Diễn... thứ gì cũng có, song cũng tuỳ theo mùa, theo tiết, hợp với việc bán giống, trồng cây. Duy chưa thấy bao giờ chợ Bưởi bán cây giống như đào Nhật Tân hay quất Quảng Bá, mà chỉ vào dịp giáp tết, bán cây và hoa đến lứa dùng chơi tết mà thôi.

Nhưng đi chợ Bưởi mua cây cũng phải có chút kinh nghiệm. Ví như chớ ham cây rẻ khi bầu đất nơi gốc cây hoàn toàn là đất mới. Như vậy, cây dễ bị đứt rễ, đem về trồng vài hôm là héo rũ. Người sành sỏi khi mua cây, ngoài việc chọn dáng vẻ cây gốc, còn chú ý đến bầu đất gốc cây phải được người làm vườn ra ngôi sẵn từ cách đó ít hôm, hoặc trồng vào giỏ tre hay chậu đất một thời gian.

Tuy nhiên, cây cảnh, cây hoa giống ở chợ Bưởi chỉ là những loại cây thông thường, chủ yếu phục vụ nhu cầu các gia đình thị dân dễ tính. Còn muốn mua các loại cây giống, cây thế, cây hoa, cây quả quý hiếm, nhất thiết phải tìm đến tận các nhà trồng vườn chuyên nghiệp mới được xứng ý.

Bà cụ già tên là bà cụ Gái, áo cánh phin nõn, tóc bạc như tơ, tươi cười trò chuyện:

- Nhà tôi ở Nghĩa Đô, có mảnh vườn rộng, tự tay tôi trồng cấy ngải cứu, lá lốt, tía tô, dấp cá, ớt. Tất cả những cây này đến phiên chợ Bưởi là tôi đem ra bán.

Chị phụ nữ tên là Lan người làng Đăm bộc tuệch:

- Nhà em chỉ có 2 sào rưỡi đất ruộng, cấy không đủ ăn, nên quanh năm mùa nào vụ ấy, em làm thêm các loại cây giống như rau ngót, xương sông, mùi tàu, dọc mùng. Ngoài ra còn làm thêm các loại cây cảnh như tố nữ, sen cạn, lan, nhài. Mà chỉ đem đi chợ Bưởi mới có khách, đem các chợ khác không có mấy người mua. Em bán cây giống ở chợ đã 20 năm rồi.

Chợ Bưởi - chợ con giống

Một chị hàng trùm khăn vải vẩy một nắm cơm nguội lên chiếc sọt nan thưa và rộng, bầy ngan con vàng ươm kíu kíu vươn cổ lên đớp đớp. Anh lái lợn túm đôi chân con lợn tháu kêu eng éc, miệng liến láu, tay vung vẩy chỉ trỏ phô nết hay ăn chóng lớn của chú ỉn cho bà khách vấn khăn nâu, túi áo cánh găm chiếc kim băng to tướng.

Cậu bé chừng năm, sáu tuổi níu quần bố mếu máo đòi mua cả lồng mấy chú chó con lông hung hung vàng. Được đi chợ Bưởi một hôm là nguồn vui tột bậc của lũ trẻ thành phố vốn quanh năm sống trong phố xá chật hẹp, tù túng, toàn người là người.

Bà hàng gà giống, khăn kẻ vuông buộc trùm trán, giọng người trên Phùng vóng vót:

- Tôi đi chợ quanh năm, cứ mồng 2, mồng 7 chợ Mơ, mồng 4 mồng 9 lên chợ Bưởi, mồng 5 mồng 10 thì vào chợ Hà Đông, ngày 3, ngày 6 sang chợ Sa. Gà Đông Tảo nuôi nhanh lớn nhất. Mấy năm nay có thêm gà Tam Hoàng, gà Long Phượng giống Tàu, nuôi cám cò lớn nhanh lắm, với mấy giống gà Tây nữa. Nhưng dân Hà Nội vẫn chuộng gà ri ta chân nhỏ mỏ vàng, nuôi lâu lớn nhưng thơm thịt.

Một ông đặc nông dân, áo đại cán sờn khuỷu tay, khăn len kẻ xanh đỏ vắt xộc xệch trên đầu đang vạch đuôi mấy con ngan giống săm soi:

- Phải chọn giống ngan đực, ngan trâu, nuôi nó mới mau lớn, chắc thịt, dôi cân, lắm lã i. Nuôi ngan cái chỉ tổ ỉa toèn toẹt suốt ngày, bẩn cả sân lẫn vườn. Ngan đực thế nào à, xem đây! của quý rõ ràng ràng ra nhé, nhưng không phải ai cũng biết đâu.

Một tràng cười rộ lên rầm rĩ át cả tiếng quàng quạc ran ran của hàng mấy chục lồng ngan ngỗng gà vịt.

Nghe nói ngày xưa, vào phiên chợ 19 tháng chạp âm lịch hàng năm, chợ Bưởi còn có bán cả các loại đại gia súc như trâu, bò, ngựa... bây giờ thì không thấy có.

Người ta thường nói: "Đi một ngày đàng, học một sàng khôn". Nhưng mà, kỳ thực, chỉ cần đi chợ Bưởi một giờ thôi, thì có khi cũng đong đầy cả mấy túi khôn. Nào là cách chọn gà, chọn vịt, chọn chó, chọn mèo, chọn chim, chọn thỏ. Chỉ riêng có cách chọn chó thôi nhé, nghe một chốc cũng ù tai. Những là tam khoanh tứ đốm. Những là tứ túc mai hoa. Rồi lại còn tứ túc huyền đề gì gì nữa...

Ông đeo kính túm gáy con mèo tam thể nhấc bổng trước mặt thằng cu cháu. Con mèo thảng thốt kêu meo meo mấy tiếng, mình mẩy co dúm, chân sau chạm tai. Thằng cu bé hếch mắt nhìn theo không chớp. Ông nó gật gù:

- Hay chuột lắm đây, chứ chẳng đuỗn đuồn đuồn như con mướp lấm đằng kia.

Cô hàng mèo được lời như cởi tấm lòng, cười toe cười toét dang tay âu yếm đón lại chú mèo như không nỡ bán, trong lúc cu con cứ kéo áo ông mếu máo đòi mua bằng được.

Nhưng mê mấy cũng không tày phiên chợ Bưởi giáp tết. Ngồn ngộn những hoa thơm, quả lạ, chiu chít gà vịt ngỗng ngan, tươi rói lá dong, lạt màu, rộn ràng, lộng lẫy véo von hàng trăm lồng chim, chậu cá. Và đào Nhật Tân, quất Quảng Bá, hoa Tây Tựu ken thành một dòng suối hoa rực rỡ chảy tràn sang tận các ngả đường từ Lạc Long Quân đến Thuỵ Khuê, Hoàng Hoa Thám rồi xuôi về hàng trăm ngả phố Hà Nội.

Nội dung bài Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Thưởng mai mùa xuân

Thưởng mai mùa xuân

“Thưởng mai mùa xuân” là nhan đề bài Podcast của Nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung. Kính mời quỳ vị cùng lắng nghe.

Bài viết:

Sự cuốn hút của hoa mai có lẽ đã bật lên từ sự tương phản, khác biệt lạ kỳ. Giữa thân hình mảnh mai, vóc dáng gầy guộc với sương gió lạnh lùng, giá băng khắc nghiệt. Giữa vẻ yếu đuối, mềm dịu bên ngoài và sự mạnh mẽ, quyết liệt bên trong. Giữa sức chịu đựng cùng cực với thế vươn lên hết mình. Hoa mai có lẽ là biểu trưng cao nhất cho sự đối chọi, mà cũng chính là sự hòà hợp tuyệt vời giữa chữ nhẫn và chữ dũng của cốt cách, tinh thần con người, trước cuộc đời bao bất trắc, gian nan mà cũng chứa chan hy vọng và niềm vui: Chúng phương dao lạc độc huyên nghiên / Chiếm tận phong tình hướng tiểu viên.

undefined
Hoa mai loài hoa mang niềm vui xuân sang, tết đến - Loài hoa mang màu nắng của đất trời phương Nam

Trăm hoa đều tàn tạ, duy chỉ có (hoa mai) hé nở, chiếm hết cảnh đẹp nơi vườn nhỏ. Đó chính là hai câu mở đầu của bài thơ thất ngôn bát cú mang tựa đề "Mai Hoa" của một nhà thơ nổi tiếng đời Tống. Nhà thơ Lâm Bô. Ông vốn là người tài trí hơn đời, nhưng ghét mùi tục luy, ghét cảnh bon chen chốn quan trường nên suốt đời chỉ ở ẩn trên núi Cô Sơn, coi mai là vợ, hạc là con. Nghệ thuật thưởng mai, không còn nghi ngờ gì, có xuất xứ chính là từ Trung Quốc. Khoảng 3000 năm trước, người ta đã nhắc tới mai, thoạt đầu như một thứ cây ăn quả trong dân gian. Sử sách Trung Quốc có ghi, vào thời Xuân Thu, ở đất Tây Chu, người dân đã biết trồng mai.

Ngôi nhà cũ kỹ của nghệ nhân Lê Quyết Bội nằm lọt trong làng hoa cổ Nghi Tàm bên sóng nước Hồ Tây. Góc hiên nhà có một cửa sổ nhỏ hình mặt trăng. Vào cứ xuân, ông thường đặt ở dưới chân tường bốn chậu cảnh quý. Đó là tùng, trúc, cúc, mai. Người xưa truyền rằng, đó là bộ cây Tứ Hữu, bốn người bạn thiết. Bởi chúng đều có sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, như tình bạn bất chấp sự đổi thay của thế cuộc. Nhất là tùng, trúc, mai, còn được liệt vào bộ Tam Dũng, ba thứ cây có khả năng xanh tốt vượt qua sự khắc nghiệt của mùa đông giá lạnh. Mà đầu bảng vẫn là cây mai. "Tiên hưởng bách hoa đầu thượng khai" - Mai nở trước muôn hoa, đứng đầu bảng xuân. Mai được coi là biểu tượng của sự thanh cao, lòng cương trực và khí phách ngang tàng, bất khuất của các bậc chính nhân, quân tử, anh hùng, trượng phu. Nghệ thuật thưởng mai, theo thời gian, đã lan dần sang các nước phương đông, chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Trung Hoa.

Từ thời nhà Lý, nhà thơ Mãn Giác Thiền sư đã có một bài thơ nổi tiếng nhắc tới hoa mai. Nguyễn Trãi vị anh hùng dân tộc, đệ nhất công thần triều nhà Lê từng ca tụng: Càng thuở già, càng cốt cách. / Một phen giá, một tinh thần.

Người đời yêu kính hoa mai bởi sự kiêu dũng, hiên ngang trước mọi khó khăn, thử thách khắc nghiệt, bởi hoa mai đem lại hương thơm thanh tao và sắc đẹp tuyệt mỹ. Và hơn tất cả, hoa mang lại cho thế gian linh hồn của mùa xuân.

Mai có rất nhiều chủng loại, ở Trung Quốc, có tới 230 loại mai. Riêng về màu sắc, được chia làm ba loại chính là hồng mai, hoàng mai và bạch mai. Ở Hà Nội, chi mai là giống mai trắng điểm hồng đã được lưu truyền qua nhiều đời. Bên hồ Tây, những làng hoa cổ truyền như Nghi Tàm, Nhật Tần vốn là xứ sở của chi mai.

Chi mai hay còn được gọi là Nhị độ mai, vì mỗi năm hoa thường nở hai lần. Cuộc sống vật chất, văn hóa, tinh thần mỗi ngày trên đất Hà Nội càng thêm tươi mới, phong phú và đa dạng. Bởi vậy, ở làng đào Nhật Tân mấy năm gần đây, bên cạnh những luống đào rực rỡ, là vẻ đẹp trắng trong, dịu dàng của những vườn mai đang kỳ trổ bông.

Khác với giống đào ưa đất mới phù sa màu mỡ, giống mai không kén đất, không cần chăm bón kỹ càng. Duy nhất, mai chỉ cần được giữ ẩm vừa độ. Mai không chịu được úng ngập, úng ngập sẽ gây thối rễ mai. Mà bộ rễ là một phần vẻ đẹp chính yếu của cây mai. Công phu nhất của người trồng mai chính là tạo nên được những bộ rễ có hình dáng xù xì, gân guốc, cổ quái, ấy là cách để nhấn mạnh độ già cỗi của gốc mai. Người trồng hoa thoạt đầu trồng cả gốc mai xuống đất như các thứ cây thông thường. Chờ cho cây phát triển đến độ thích hợp theo ý nhà vườn, họ sẽ nhấc cây khỏi mặt đất và trồng lại ở độ sâu nhỏ hơn trước. Hoặc tìm cách bới đất cho rễ cây lộ thiên, rồi uốn tỉa cho thành các hình thế khác nhau. Nào Cửu long tranh châu, nào Bát tiên quá hải, nào Ngũ phúc lâm môn...

Sở dĩ người ta kỳ cầu tạo nên vẻ già cỗi cho mai, chính là vì chiều theo thị hiếu dường như là bất biến của người chơi mai tự cổ chí kim. Kỳ lạ thế, tiêu chuẩn của một cây mai đẹp thật khác xa so với muôn hoa. Có bốn tiêu chí để định giá vẻ đẹp của cây mai. Đó là người ta quý già chứ không chuộng non, quý mảnh chứ không ưa mập, quý thưa chứ không thích dày, và cuối cùng là quý nụ chứ không mong nở. Chính bởi vậy, người mê đào thì dù sớm thế nào cũng phải đợi tới qua rằm tháng chạp, mới có thể lên dinh chọn đặt cây cho tết âm lịch. Chính lúc ấy, người ta mới có thể xem nụ mà đoán hoa. Còn người yêu mai có thể lên vườn chọn mai từ dịp nhà vườn đang mùa tuốt lá, tức là từ tiết đông chí, giữa tháng mười một âm lịch. Khi ấy, cây mai đã chớm lộ vẻ đẹp của vóc dáng, hình thế. Mà vóc dáng, hình thế, đó mới chính là tinh thần, cốt cách của hoa mai.

Chốn nhân gian ngàn đời luôn vui ít buồn nhiều. Trong thập đại danh khúc cổ nhạc của Trung Hoa có tới bẩy bài mang âm hưởng buồn man mác hoặc buồn tới mức bi thiết, não nùng. Chỉ có 3 bài là có những đoạn mang âm hưởng vui vẻ, lạc quan, phấn khích. Trong đó có khúc "Mai hoa tam lộng". Có một giai thoại về

"Mai hoa tam lộng". Đó là câu chuyện về Nhân Hồng Hạo vào thời Nam Tống. Ông vốn là một người được sai đi sứ nước Kim nhưng rốt cuộc bị bắt lại mất hơn mười năm. Mười năm dài chờ đợi đằng đăng được hồi hương, mười năm sống trong sự uy hiếp rồi dụ dỗ của kẻ địch, tâm ông chẳng sợ, lòng dạ chẳng sờn, vẫn hiên ngang từ chối mọi ưu sách, ông một mực bảo trì phong thái cao thượng, coi nhẹ hư vô ở đời. Danh sĩ Cao Bá Quát, một bậc kỳ nhân quê ở làng Sủi (nay thuộc xã Phú Thụy, huyện Gia Lâm) là người tài ba, cao ngạo.

Cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương do ông lãnh đạo dù thất bại song vẫn để lại cho người đời tiếng thơm khí phách của một bậc chính nhân quân tử không chịu khuất phục trước cường quyền triều Nguyễn.

Tương truyền Cao Bá Quát đã để lại đôi câu thơ nổi tiếng: Thập tải luân giao cầu cổ kiếm / Nhất sinh đê thủ bái mai hoa. (Mười năm vất vả gian truân tìm kiếm cổ. Một đời chỉ cúi đầu bái lạy hoa mai).

Sở dĩ tôi chỉ dám viết hai chữ "tương truyền", bởi cũng có một thuyết khác cho rằng đôi câu thơ trên không phải do danh sĩ họ Cao sáng tác mà là của một nhà nho khác sống cùng thời. Nhưng dẫu sao đó vẫn là đôi câu thơ tuyệt hay về phẩm chất của người quân tử ngày xưa.

Ngẫm ngợi sâu xa thì sự cuốn hút của hoa mai có lẽ đã bật lên từ sự tương phản, khác biệt lạ kỳ. Giữa thân hình mảnh mai, vóc dáng gầy guộc với sương gió lạnh lùng, giá băng khắc nghiệt. Giữa vẻ yếu đuối, mềm dịu bên ngoài và sự mạnh mẽ, quyết liệt bên trong. Giữa sức chịu đựng cùng cực với thế vươn lên hết mình.

Hoa mai có lẽ là biểu trưng cao nhất cho sự đổi chọi, mà cũng chính là sự hòà hợp tuyệt vời giữa chữ nhẫn và chữ dũng của cốt cách, tinh thần con người, trước cuộc đời bao bất trắc, gian nan mà cũng chứa chan hy vọng và niềm vui: Cử đầu hồng nhật cận - Đối ngạn nhất chi mai. / Ngửng đầu mặt trời mọc - Bên suối một nhành mai.

Bài thơ "Thướng sơn" của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc ra đời vào thời khắc cách mạng Việt Nam đang đứng trước một bước chuyển lớn lao có lẽ đã không chỉ dừng ở tầng ý nghĩa văn chương, nghệ thuật, mà hơn thế, còn mang ý nghĩa tư tưởng, nhân sinh quan cách mạng sáng đẹp tuyệt vời.

Trong dân gian, nếu như giới thương nhân và người lao động bình dân tết đến thường thích chơi đào bích với sắc hoa đỏ tươi, nụ hoa đông đúc, cánh hoa dày dặn, ý cầu mong cuộc sống sung túc, đủ đầy, rực rỡ, ấm áp, thì giới trí thức, văn nghệ sĩ thường thích đào hồng phai và hoa mai trắng muốt, hầu gửi gắm tâm hồn phong nhã, hào hoa, coi thường những ước muốn trần tục đời thường. Hoa mai vì thế, như thể để dành riêng cho giới sĩ phu, trí giả, văn nghệ sĩ nghênh đón xuân sang.

Đôi vợ chồng nghệ sĩ sân khấu Hà Nội Kim Thanh - Vinh Mậu ngay từ thời trẻ đã cùng nặng lòng yêu hoa mai. Đối với họ, hoa mai là biểu trưng cho tình yêu thanh cao và bền chặt. Đứa con gái út của đôi vợ chồng nghệ sĩ được sinh ra với cái tên chọn sẵn: Mai Chi. Sau này, anh trở thành một tác gia sân khấu chèo, khán giả Hà Nội còn nhớ tới anh với vở chèo Vòng phấn Cap - ca - dơ, còn chị trở thành một nhà giáo ở khoa kịch nói trường nghệ thuật Hà Nội. Bao gian khó và bao thăng trầm trong cuộc đời, rồi cũng đã lùi lại phía sau. Giờ đây, cả hai vợ chồng đều đã ở cái tuổi đã rời xa ánh đèn sân khấu, lặng lẽ trở lại với đời thường. Thế sự xoay vần, nghề chơi lại có lúc trở thành nghiệp sống. Một cửa hiệu hoa cảnh ra đời trên phố Hoàng Hoa Thám, đã trở thành nơi tụ hội của giới tao nhân, mặc khách Hà Thành. Anh và chị lấy tên loài hoa mà họ yêu quý nhất mà đặt tên cho cửa hiệu của nhà, hiệu hoa cảnh Nhất Chi Mai.

Bận rộn quanh năm, tuy vậy, anh và chị vẫn giữ một phong thái sinh sống và ứng xử bình hòà, giản dị và cao nhã, như chẳng hề nhuốm mùi tục luy chốn thương trường. Mỗi thời khắc xuân vê, anh chị lại cùng chăm chút cho những chậu mai, chờ người đồng điệu. Cái nghiệp chèo anh dày công đeo đuổi, trải qua mấy khúc thăng trầm, giờ đang gặp vận hội hồi sinh, dù còn là mong manh, thắc thỏm, song cũng phần nào giúp cho anh vơi nhẹ nỗi trở trăn nghề nghiệp.

Ông xã tôi vốn là dân kinh doanh và công cuộc làm ăn cũng đã trải qua lắm khúc thăng trầm, có lúc rầm rộ nổi tiếng trên thương trường, rồi có khi đã hầu như mất hết cả sản nghiệp, để lại hệ lụy vô cùng nặng nề cho gia đình, vợ con, bầu bạn. Nhưng khi thoát vòng lao lý ở tuổi ngoại ngũ tuần, anh vẫn gắng gỏi đứng dậy bắt đầu một công việc làm ăn dù nhỏ lẻ chỉ bằng một phần trăm, một phần nghìn thời trai trẻ. Cốt là để khắc phục dần những hậu quả thất bại trong những năm tháng trước đó. Ông xã tôi cũng rất thích hoa mai trắng, có lẽ bởi đã một thời vốn từng theo học hàm thụ đại học tổng hợp văn trong thời gian anh là hạ sĩ quan biên phòng đóng quân tại Hà Nội. Tôi thì rất thích tích truyện dân gian Nhị độ mai. Cô con gái út của vợ chồng tôi cũng được đặt tên Hạnh Nguyên là đặt theo tên nàng công chúa trong tích truyện ấy. Ý là mong cho con vượt qua khổ nạn gia đình đến được cuộc sống hạnh phúc tươi đẹp.

Năm nào bên cạnh quất đào vàng thắm, hồng rực trong phòng khách, vẫn là một gốc mai trắng thanh mảnh, dịu dàng. Cuối năm trước, ông xã tôi đã thanh thản về với cõi người hiền sau mấy năm trời kiên trì chống chọi với những căn bệnh hiểm nghèo. Tết đến, theo lệ cũ, tôi vẫn rước một gốc mai trắng về phòng khách và tạm bỏ thú chơi đào quất hằng niên. Gốc mai trắng năm ấy tự nhiên lại trổ hoa rạng rỡ khác thường. Một mình bên song cửa rộng mở chào đón nắng xuân, những cánh lá xanh non rung rinh bên những đóa hoa trắng tinh khôi. Thấp thoáng đan xen là những đốm nụ điểm màu hồng tươi rói.

Chợt nhớ câu thơ xưa của Mãn Giác thiền sư cách đây gần mười thế kỷ: Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận / Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. (Chớ tưởng xuân tàn hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một nhành mai)

Kính thưa quý vị, bài Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Về hội vật cầu mùa xuân Thuý Lĩnh

Về hội vật cầu mùa xuân Thuý Lĩnh

“Về hội vật cầu mùa xuân Thuý Lĩnh” là nhan đề bài Podcast ngày hôm nay của tác giả - nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung, nguyên Trưởng ban Văn hoá - Xã hội, Đài PT-TH Hà Nội. Bài viết được in trong cuốn sách “Hà Nội mến thương” của tác giả. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Bài viết:

Màn bái Thánh của hội vật cầu Thúy Lĩnh do lớp cầu thủ thiếu niên thi đấu tranh tài cướp trái bòng vô cùng hào hứng, sôi động và mang khí thế tranh đua quyết liệt ngay từ phút ban đầu. Những hồi trống cầm nhịp rầm rộ khiến cả một không gian rộng lớn bên bên sân đình tràn ngập niềm hứng khởi mở màn ngày hội tươi vui. Trái bòng vàng rực rỡ bay lượn trên bầu trời ban mai lấp lánh ánh bình minh tạo một hình ảnh thật thơ mộng, bay bổng và quyến rũ lòng người.

Sớm đầu xuân trong sáng, cảnh vật thơ thới, tiếng trống hội rộn rã thôi thúc bước chân người. Lá cờ đại ngũ sắc trước khuôn viên đình làng bay cao trong gió như vượt lên triền đê con sông Hồng, in bóng trên những cánh bãi dâu ngô xanh biếc sắc xuân. Nhóm phóng viên lần đầu tiên đến tham dự hội làng Thúy Ái trong năm đầu tiên làng phục dựng hội làng sau nhiều năm đứt quãng vì chiến tranh và đói nghèo nên thật dễ hòa chung vào niềm vui nao nức của bà con dân làng cũng như con dân Thúy Lĩnh khắp từ trong ngoài nước đổ về.

Thuý Ái là một thôn làng thuộc địa phận xã Lĩnh Nam,huyện Thanh Trì sau đổi là làng Thuý Lĩnh phường Lĩnh Nam, quận Hoàng Mai. Nằm bên ngoài con đê sông Hồng, tự xa xưa, người dân Thúy Lĩnh sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng dâu nuôi tằm và dệt vải lụa. Tên gọi Thúy Lĩnh có nghĩa là một tấm lụa biếc nói lên niềm tự hào về nghề truyền thống lâu đời của miền quê bên sông Hồng.

undefined
Hội vật cầu xuân Thuý Lĩnh

Thời kỳ sau ngày tiếp quản Thủ đô 1954, Thuý Lĩnh đã trở thành một vùng trồng rau chuyên canh của Hà Nội cho đến tận giờ đây.

Những năm cuối thế k XX đầu thế kỷ XXl, từ một một làng quê nghèo nàn, Thuý Lĩnh đã và đang trên đà đô thị hóa nhanh chóng. Nhà cửa mọc lên san sát, đường xá mở mang rộng rãi, khang trang.

Tuy nhiên, cho đến tận giờ đây, Thuý Lĩnh vẫn giữ riêng cho thôn làng một cụm di tích văn hóa lịch sử cổ kính mang dấu ấn của những thời kỳ hình thành và phát triển làng xã dưới chế độ phong kiến. Đó là ngôi chùa Thuý Lĩnh mang tên chữ là chùa Diên Khánh. Chùa có lịch sử tạo dựng từ những năm cuối triều nhà Lê đầu triều nhà Nguyễn. Những khóm hoa và cây cảnh cổ thụ trong sân chùa đã in dấu thời gian trải hàng trăm năm có lẻ tỏa bóng trên mái đình cổ kính.

Đình làng Thuý Lĩnh có lịch sử lâu đời hơn, tương truyền là từ thời Lý. Hoặc là đình được xây dựng bởi những người dân đầu tiên ra khai hoang lập làng đã đem theo tập tục phụng thờ đức thánh Linh Lang Đại vương, tức hoàng tử Lý Hoằng Chân đời nhà Lý, là vị thần trấn Tây thành Thăng Long. Truyền thuyết dân gian kể lại rằng, khi Linh Lang đại vương thắng trận, dẹp yên giặc Tống phương Bắc, đã tung lá cờ chiến thắng lên trời cao. Ở vùng đồng bằng Bắc bộ, có tới 269 nơi trông thấy bóng cờ bay ngang qua và đều lập đình đền thờ Đức Ngài làm thành hoàng làng, người bảo trợ cho sự thịnh vượng bình yên cho dân thôn. Thuý Lĩnh chính là một trong 269 làng quê đó.

Hàng năm, làng Thuý Lĩnh mở hội xuân tại đình làng vào các ngày mùng 4 mùng 5 và mùng 6 tháng Giêng âm lịch, trùng với kỳ hội làng Mai Động thờ đức thánh Nguyễn Tam Trinh thời Hai Bà Trưng.

Theo các cụ lão niên trong làng kể lại, thì tục vật cầu ngày xuân của làng Thuý Lĩnh là một trong những nghi lễ phụng thờ đức Linh Lang Đại Vương thành hoàng làng, thể hiện tinh thần thượng võ của quân tướng Đức Linh Lang và cũng là truyền thống chiến thắng giặc ngoại xâm của dân tộc ta trong lịch sử. Tục vật cầu ngày xuân của làng Thuý Lĩnh đầu năm mới cũng là để cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, gia đình hòa hiếu, xóm làng an vui.

Sới vật cầu mùa xuân của làng Thuý Lĩnh tự xa xưa được mở ngay trước sân đình. Sau này, do quy hoạch đường xá mới, sới vật chuyển sang mé bên phải sân đình. Lễ vật cầu Thuý Lĩnh quy định rất rõ về kích thước quy mô sới vật, về cách thức chuẩn bị sới vật trước khi vào trận đấu. Đời sau cứ chiếu lệ cũ mà theo, dù đứt nối bao nhiêu năm cũng vẫn vậy.

Mở đầu tất cả các cuộc thi đấu vật cầu Thuý Lĩnh bao giờ cũng là trò cướp trái bòng xuất phát từ trò chơi bóng bưởi của của trẻ em các vùng nông thôn Bắc bộ xa xưa. Trò cướp bòng này cũng được coi là nghi thức thờ Thánh nhất thiết của hội xuân làng Thuý Lĩnh. Màn bái Thánh được tiến hành tại trước ban thờ vọng lập ngay trên sới vật. Tuy nhiên màn bái Thánh của Hội vật cầu Thúy Lĩnh có khác với màn bái Thánh của hội vật truyền thống Mai Động. Nếu như màn bái Thánh của hội vật Mai Động chủ yếu là do một lão đô vật biểu diễn các động tác xe đài uyển chuyển, mạnh mẽ thì màn bái Thánh của hội vật cầu Thúy Lĩnh do lớp cầu thủ thiếu niên thi đấu tranh tài cướp trái bòng vô cùng hào hứng, sôi động và mang khí thế tranh đua quyết liệt ngay từ phút ban đầu. Những hồi trống cầm nhịp rầm rộ khiến cả một không gian rộng lớn bên sân đình tràn ngập niềm hứng khởi mở màn ngày hội tươi vui. Trái bòng vàng rực rỡ bay lượn trên bầu trời ban mai lấp lánh ánh bình minh tạo một hình ảnh thật thơ mộng, bay bổng và quyến rũ lòng người.

Theo các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, hình tượng trái bòng vàng hay là trái cầu đỏ chính là biểu trưng cho hình ảnh của mặt trời, nguồn gốc của năng lượng sự sống của vũ trụ và loài người, nhất là đối với người dân sinh sống tại những đất nước thuộc nền văn minh lúa nước. Đó còn là hình ảnh biểu trưng cho hạnh phúc và sự phồn thịnh, sự sinh sôi nảy nở của muôn loài trên trái đất.

Tuy nhiên, khi vào thi đấu chính thức, sẽ có một quả cầu bằng gỗ sơn đỏ có kích thước to lớn gấp ba gấp tư trái bóng đá như mọi người thường quen thuộc. Đó là trái cầu hằng ngày được bày trang trọng trước ban thờ Thánh trong đại đình mang ra sau màn tế Thánh khai hội vừa được các bô lão trong làng hoàn thành cùng những giai điệu nhạc lễ dân tộc truyền thống.

Tục vật cầu Thuý Lĩnh chia các đội thi đấu theo các lứa tuổi khác nhau: Nhi đồng, thiếu niên, thanh niên, trung niên và cao niên. Mỗi đợt thi đấu gồm 8 cầu thủ, chia làm bốn đội. Mỗi đội gồm hai người, mang đai lưng cùng màu nhau và cùng màu với lá cờ chuẩn cắm ở hố xuất phát của đội đó. Bốn màu là: xanh - đỏ - tím - vàng. Các tuyển thủ cởi trần, mặc quần trắng thắt lưng màu theo màu cờ của đội thi. Ai nấy trông đều vạm vỡ, sức vóc và bừng bừng khí thế.

Mỗi đợt vật cầu được gọi là một phiên. Một phiên thi đấu kéo dài khoảng 1/4 khắc, tức là 30 phút. Nhiều nhất là đến 45 phút. Tiếng trống thúc từng hồi liên tục, giục giã.

Kíp làm phim chia làm hai nhóm với hai quay phim, hai kỹ thuật và hai biên tập viên và một đạo diễn chạy quanh liên tục không có một phút nào được nghỉ ngơi mà có những khoảnh khắc như vẫn trượt khỏi ống kính máy quay.

Nếu như hội vật Mai Động mỗi keo vật vẫn có hai đô vật cùng nhau thi đấu tay không thì hội vật cầu Thúy Lĩnh, mỗi phiên vật bao gồm 8 cầu thủ cùng thi nhau chạy đua, luồn lách, vờn vỡ, tranh cướp trái cầu gỗ đỏ rực thì không khí thêm bội phần rộn rã, quyết liệt. Chưa cần đến cuối phiên đấu, các cầu thủ đều đã lấm lem màu bùn đất suốt từ đầu đến chân. Thật là một cảnh tượng đầy phấn khích.

Lễ vật cầu ở Thúy Lĩnh có hai ngôi trọng tài. Trọng tài là những người có kinh nghiệm thi đấu vật cầu lâu năm và có uy tín trong dân làng bởi sự công minh, trung thực, không thiên vị. Trọng tài cũng rất cần có sức khỏe tốt, có sự dẻo dai và phải hết sức nhanh châ, tinh ý để có thể phát hiện các lỗi sót của cầu thủ và phân định thắng thua rạch rồi, minh bạch, được ban giám khảo và người xem tán đồng nhiệt liệt.

Hội vật cầu Thuý Lĩnh diễn ra mỗi năm chỉ có một kỳ ba ngày. Thế nhưng muốn chiến thắng ở cuộc thi không phải là điều dễ dàng. Ngoài sức khỏe trời phú, mỗi tuyển thủ đều phải có sự rèn luyện thường xuyên hàng ngày cộng thêm những tố chất khác nữa.

Như là sự nhanh nhẹn, mưu mẹo, khéo léo, dẻo dai và biết chớp thời cơ đúng lúc, bất ngờ.

Bên cạnh ban thờ là chỗ ngồi của ban giám khảo cuộc thi gồm các cụ lão niên có uy tín trong làng và thông hiểu lệ tục trò chơi vật cầu cổ truyền. Các thành viên trong ban giám khảo sẽ thay thế nhau đổi phiên đánh trống cầm chịch theo từng phiên thi đấu.

Tiếng trống lúc nào cũng vang vang, mạnh mẽ, thôi thúc. Mỗi khi có một đội tuyển thủ nào đưa được trái cầu về đúng hố cắm cờ của đội mình theo đúng thể thức, không phạm luật câu giờ hay ngoại biên, thì được coi là đạt một giải con. Đại diện của đội đoạt giải sẽ ra trước ban thờ bái Thánh và nhận thẻ điểm màu xanh có ghi trị giá số tiền thưởng ngay trong thẻ.

Nếu đội nào liên tục đạt ba giải con liên tiếp, không đứt quãng, sẽ được nhận một giải cái, thể hiện bằng một thẻ đỏ, có ghi số tiền thưởng ngay trên thẻ. Nếu đoạt nhiều giải con nhưng không liên tục, cũng không thể được nhận giải cái. Điều đó khiến cho các đội thi đấu phải dốc sức với quyết tâm rất lớn. Và đó cũng trở thành yếu tố kích thích sự hứng thú thi đấu cho các tuyển thủ và sự hấp dẫn cao độ với khán giả tham dự. Nếu sau 30 phút thi đấu mà không đội tuyển nào đoạt được giải cái thì trận đấu buộc phải kết thúc để nhường sân bãi cho lớp tuyển thủ mới.

Ngắm những đội cầu thủ phải ra sân khi chưa nhận được giải cái với những gương mặt đỏ bừng tức bực, hối tiếc lại càng thấy không khí cuộc đấu hấp dẫn biết chừng nào.

Người xem hội vật cầu Thúy Lĩnh xúm quanh vòng trong vòng ngoài, tha hồ hò hét vỗ tay cổ vũ đội nhà. Trời tháng Giêng còn giá rét mà họ cởi phăng áo ngoài quàng vai quàng cổ, mặt đỏ bừng, cơ khản đặc. Lắm lúc họ như muốn lao mình vào trận đấu như thể mình cũng là một thành viên đội vật cầu. Nhất là khi có cầu thủ nào trượt chân ngã hay về đúng trái cầu thì khí thế các cổ động viên càng như nổ bùng. Câu tục ngữ "Vui xem hát, nhạt xem bơi, tả tới xem hội" ứng vào cảnh tượng này thật không sai chút nào.

Tám đội trong vòng bán kết được chia làm 2 bảng, mỗi bảng 4 đội, mỗi đội có 2 người chơi chính để thi đấu. Mỗi trận đấu kéo dài 40 phút. Sau khi 2 bảng thi đấu sẽ chọn ra 2 đội có điểm cao nhất ở mỗi bảng để vào thi đấu trận chung kết.

Trận chung kết bao giờ cũng thu hút đông đảo người xem nhất. Tiếng hò hét cổ vũ ầm ầm như muốn át cả những hồi trống cầm nhịp dồn dập vang lừng.

Đội thắng cuộc bất chấp mình mẩy lấm bê bết bùn đất, họ cùng nhau tâng cao trái cầu gỗ đỏ rực trên bầu trời rực rỡ ánh nắng xuân in hình trên những rặng cây xanh tươi. Đó là một khuôn hình đại toàn cảnh thật tráng lệ trong cuốn phim phóng sự của chuyên mục Hà Nội ngàn năm văn hiến.

Tiền thưởng của hội vật cầu mùa xuân Thuý Lĩnh chủ yếu do bà con dân làng và các nhà hảo tâm đóng góp tài trợ. Tiền thưởng tuy không cao song có giá trị động viên tinh thần rất lớn. Đó là vinh dự rất lớn cho đội tuyển đó trong hội thi. Đội tuyển của hai chàng trai này vừa đoạt được một giải cái sau ba phiên thi đấu khá cam go.

Chiều ngày mồng sáu tháng Giêng là ngày kết hội của hội vật truyền thống Mai Động, Hoàng Mai và cũng là ngày kết hội của hội vật cầu Thúy Lĩnh, Lĩnh Nam. Và bà con dân làng hai vùng quê lại hẹn cùng nhau chờ đến dịp hội làng tháng Giêng năm tới trong những trận đấu sôi động và đầy bất ngờ cùng những gương mặt các đội tuyển thủ trẻ trung mới mẻ lớn lên từ chính mảnh đất của làng quê thân thương.

Nội dung bài Podcast đến đây xin được tạm dừng, thân mến chào tạm biệt quý vị!

Đôi ván cờ ngày xuân

Đôi ván cờ ngày xuân

“Đôi ván cờ ngày xuân" là nhan đề bài Podcast của tác giả: Nhà báo Vũ Thị Tuyết Nhung - Nguyên trưởng ban Văn hoá - Xã hội; Đài PT-TH Hà Nội, bài viết trong cuốn sách “Hà Nội mến thương” của chính tác giả với nhiều bài viết ý nghĩa về những nét văn hoá độc đáo về mảnh đất và con người đất Kinh Kỳ. Xin mời quý vị cùng lắng nghe.
Bài viết:
Tự ngàn năm xưa, cầm kỳ thi hoạ, vốn là bốn thú chơi tao nhã của người Á Đông. Có nhiều người ngờ rằng, câu chuyện cuộc cờ tiên vỗn là không có thực. Mà cái có thực, hình như là sự thoát tục, cao siêu của một thú chơi đẹp đẽ và tao nhã trong chốn nhân gian. Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, thì cờ tướng du nhập vào nước ta muộn nhất là vào thời Bắc thuộc, cách đây trên ngàn năm. Đó là một thú chơi văn hóa, hay là một môn thể thao trí tuệ, hay là tổng hòa cả hai, người ta thường không mấy phân tách rạch ròi.

undefined
Cuốn sách "Hà Nội mến thương".

Thoạt nhìn, khó ai đã đoán đúng tuổi của cụ ông Nguyễn Đắc Dần nhà ở phố Hoàng Hoa Thám, đoạn gần chợ Bưởi. Râu tóc bạc như tơ, nhưng dáng người quắc thước, nước da đỏ au đi đứng nhanh nhẹn, đường hoàng, vững chãi, nói năng vui vẻ, hài hước, cụ vốn chỉ là một viên chức bình thường của ngành đường sắt về nghỉ hưu từ mấy chục năm nay. Con cái đã phương trưởng, đàng hoàng, mỗi người mỗi cơ, mỗi ngũ, hàng ngày cụ thong dong tận hưởng những thú vui tuổi già mà cụ hằng ưa thích. Nhất là thể dục dưỡng sinh và võ dân tộc. Nhì là chơi hoa cây cảnh và ba là thú đánh cờ. Chiều cụ, anh con trai út tuổi Đinh Dậu những lúc rảnh việc thường hầu cờ cùng cha vài ba ván. Khi cao hứng, cụ thường kể cho con những giai thoại xung quanh thú chơi cờ. Ai được nhìn thấy cụ ngồi đánh cờ bên chiếc bàn gỗ lên nước sẵm bóng, cạnh chậu lan mặc biên thơm một làn hương dịu ngọt, sẽ có thể ngỡ mình đang được xem một cuộc cờ tiên. Cụ Nguyễn Đắc Dân luôn lưu giữ bên mình một cuốn sổ tay cũ kỹ, nhiều trang đã ở vàng, không biết đã có từ bao năm rồi. Trong đó cụ ghi chép những thế cờ độc đáo. Đặc biệt, có một thế cờ mà cụ tâm đắc mãi, không chỉ vì cái hay thông thường của một nước cờ cao mà còn hơn thế. Đó chính là nước cờ do cụ chủ tịch nước Hồ Chí Minh sáng tác và đựợc in trên báo Lao Động năm 1966. Cụ Dẫn đã từng lấy nước cờ này đem đố rất nhiều bậc đại cao thủ làng cờ Hà Nội, mà chưa ai giải nỗi. Ngay như cụ Dần, cũng chỉ giải nồi theo bài dẫn đăng kèm trên số báo sau.

Khi chén rượu, khi cuộc cờ.
Khi xem hoa nở, khi chờ trăng lên

Tự ngàn năm xưa, cầm kỳ thi hoạ, vốn là bốn thú chơi tao nhã của người Á Đông. Có nhiều người ngờ rằng, câu chuyện cuộc cờ tiên vốn là không có thực. Mà cái có thực, hình như là sự thoát tục, cao siêu của một thú chơi đẹp đẽ và tao nhã trong chốn nhân gian.
Theo các nhà nghiên cứu văn hoa, thì cờ tướng du nhập vào nước ta muộn nhất là vào thời Bắc thuộc, cách đây trên ngàn năm. Đó là một thú chơi văn hoá, hay là một môn thể thao trí tuệ, hay là tổng hòà cả hai, người ta thường không mấy phân tách rạch ròi. Nhất là khi đã vào cuộc cờ, lại trong một khung cảnh thiên nhiên xinh đẹp, hữu tình cùng những người bạn thân thiết. Khi hương xuân, vị tết tràn ngập không gian, người ta có thể dành thời gian tận hưởng đôi ba niềm vui vì thành quả của một năm trời vất vả trong cuộc mưu sinh vốn không ít những lo lắng, ưu phiền khó tránh. Niềm vui ấy sẽ càng được nhân lên trong những cuộc cờ người ở hội làng.
Cách đây gần sáu mươi năm, có một chàng trai Hà thành say mê cờ tướng vào hạng nhất. Chàng trai Nguyễn Tấn Thọ từng ba năm liền đoạt giải cờ chùa Vua, một giải cờ dân gian danh tiếng nhất xứ Bắc và được khắc tên trên tấm bia đá của chùa. Hội cờ chùa Vua mở vào ngày mồng 6 tháng Giêng năm mới. Tương truyền, vào thời Lê cách đây trên năm trăm năm, có một vị hoàng tử con vua nổi tiếng mê cờ. Ngài đã cho dựng một ngôi chùa trên đất làng Thịnh Yên phía nam kinh thành Thăng Long để thờ vị vua cờ huyền thoại Đế Thích và lập sân đấu cờ trước sân chùa cho dân chúng vui xuân. Cho tới bây giờ, vua cờ Nguyễn Tấn Thọ vẫn được giới danh thủ đất Hà Nội tôn vinh là bậc cao cờ hạng nhất. Đã từ nhiều năm nay, vào ba tháng mùa xuân, hiếm ai có thể tìm thấy ông tại nhà. Ông thường được hàng trăm làng xã ở khắp vùng đồng bằng, trung du Bắc bộ mời gọi làm cố vấn cho các hội cờ xuân thôn quê. Hào hưng với việc khôi phục lại một nét đẹp của mùa xuân xứ Bắc, vua cờ Nguyễn Tấn Thọ hầu như không nghĩ mình đã ở tuổi ngót bát tuần. Nhưng cái tinh thần của cờ tướng trong thời kỳ mới, ông hầu như thấu hiểu tới tận cùng.
Hà Nội còn có một bậc kỳ thủ cao niên rất nồi danh là vua cờ Lê Uy Vệ, cụ từng là phó chủ tịch Liên đoàn cờ Việt Nam. Dù nghỉ hưu đã mấy chục năm song giới kỳ thủ đất Bắc vẫn tôn vinh cụ là người có chuyên môn xuất sắc và có những nước cờ rất hào hoa, thoáng đạt. Ngắm lão vương Lê Uy Vệ diện áo gấm đỏ, đội khăn xếp đỏ, gương mặt hồng hào, đôi mắt tinh anh, ai đó đều mong ước cụ sống sống lâu trăm tuổi và mỗi dịp hội cờ chùa Vua mùa xuân, cụ lại hiện diện như một biểu tượng tuyệt đẹp của thú chơi cao nhã cổ truyền dân tộc.
Mùa xuân năm ấy, ở độ tuổi ngót tám mươi, nhà nghiên cứu văn hóa phương đông Ngô Linh Ngọc vẫn được người Hà Nội tôn vinh là người toàn tài cầm kỳ thi họa trong giới trí giả ở Việt Nam. Riêng đối với cờ, ông từng là người sáng lập ra hội cờ Thuyền Quang vào năm 1936, năm mở đầu phong trào mặt trận dân chủ Đông Dương ở Việt Nam, với rất nhiều hoạt động nhằm tôn vinh và phục hồi những nét đẹp trong nền văn hóa dân tộc. Trong tủ sách gia đình, có hai cuốn sách mà ông yêu quý nhất. Đó là cuốn
Trung Quốc tượng kỳ từ điển, và Tượng kỳ toàn thư. Hai cuốn sách dây cộp, có các thế cờ minh hoa cho cách dánh, có chú thích, có diễn giải một cách sáng sửa, rõ ràng. Ong Ngọc khi trò truyện với chúng tôi cứ ao ước hoài rằng chừng nào Việt Nam có được đôi ba cuốn sách như vậy thì bộ môn văn hóá thể thao cờ tướng sẽ có cơ phát triển mạnh mẽ hơn.
Vài mươi năm trước, với bút danh Kỳ Hữu, ông đã là một cây bút hàng đầu của tạp chí Người chơi cờ Việt Nam. Ông từng sưu tâm và cải biên hàng trăm thế cờ nổi tiếng của phương đông để giới thiệu với làng cờ tướng Việt Nam, góp phần không nhỏ cho phong trào cờ tướng của Hà Nội. Tuy nhiên, có một công trình nghiên cứu mà ông đang say mê theo đuổi, đó là việc sưu tẩm, các áng văn thơ cổ kim về để tài cờ tướng. Nhất là các bài thơ cờ của các bậc vua chúa ngày xưa và các vị lãnh tụ thời nay. Nào thơ của Hán Vũ Đế, thơ của Đường Thái Tông bên Trung quốc, thơ của Lê Thánh Tông, thơ của Hồ Chủ tịch ở Việt Nam. Nếu ai đó có cùng sở thích, xin hãy tìm đến ngôi nhà nhỏ của nhà thơ Ngô Linh Ngọc ở Khu tập thể Trường Đại học Bách khoa. Được hầu chuyện một người như ông, hẳn là ta có thể quên thời quên khắc.
Nhưng mà người Á Đông từng truyền tụng nhau câu danh ngôn cổ: "Rạp dẫu có dựng dài ngàn dặm, buổi tiệc nào là buổi tiệc không tan". Bất cứ một niềm đam mê nào cũng bao hàm một sự thái quá. Mà không phải sự thái quá nào cũng có thể được xã hội chấp nhận. Trong kho tàng sưu tầm của nhà nghiên cứu văn hóa Ngô Linh Ngọc, có một chỉ dụ của vị Hoàng Đế họ Đinh nước Việt cách đây gần 10 thế kỷ về việc ra hình phạt với người quá ham mê đánh cờ mà bỏ bễ việc công. Cụ còn nhắc đến bài hịch tướng sĩ của Hưng đạo Vương Trần Quốc Tuấn với lời nhắc nhở phê bình quản sĩ chớ ham cờ tướng, chớ ham đá gà, chó ham đàn hát mà lơ là việc quân.
Tiến sĩ Nguyễn Viết Chức có một thời từng đảm đương vị thế quan chức đầu ngành của sở văn hóa thông tin Hà Nội. Cơ quan của ông đóng tại bờ hồ Gươm. Mỗi khi kết thúc giờ làm việc, ông thường quá bộ sang đường, tìm vào câu lạc bộ cờ Ngọc Sơn, nơi ông là hội viên không chính thức từ hàng chục năm nay. Cởi chiếc áo khoác, đặt chiếc máy điện thoại di động trước mặt, thế là ông chủ mục vào bản cờ với hai bên quân xanh, quân đỏ. Bạn cờ của ông có nhiều người là quan chức trong ngành tư tưởng văn hóa của trung ương và Hà Nội. Nhiều vị đã nghỉ hưu song không ít vị còn đương chức. Hôm ấy tôi trông thấy cả nhà thơ Vũ Duy Thông, vụ trưởng vụ báo chí của Ban văn hóá tư tưởng Trung ương và một vài nhân vật quen thuộc trong chính làng báo của chúng ta. Họ tìm đến cờ tướng để giải trí hay là để rèn luyện, hay là cả hai. Trong cương vị hiện thời, ông có thể nói gì đây về một thú vui chưa dễ được hiểu, được quan niệm một cách thuần nhất.


Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.


Nhưng ở độ tuổi của cụ ông Nguyễn Đắc Dần, tuổi ngót chín mươi thì một năm 365 ngày đều có thể coi là những ngày xuân, xuân bất tận và vui bất tận. Có thể lắm chứ, bởi ván cờ chính của cuộc đời, cụ đã hoàn thành trên mọi phương diện, tuy chẳng vẻ vang cao xa, nhưng cũng đủ để cháu con nể trọng, mến yêu. Hôm nay, vừa rời cuộc biểu diễn võ dân tộc ở câu lạc bộ người cao tuổi quận Cầu Giấy, cụ ông Nguyễn Đắc Dần lại cầm chiếc bình tưới cho mấy chậu địa lan trước khi thong thả ngồi vào bàn cờ tướng.
Nếu ai đó có lòng đến thăm cụ ở cửa hàng hoa cảnh Nhất Chi Mai, xin hãy nhớ đừng chúc cụ sống lâu trăm tuổi. Bởi cụ sẽ không bằng lòng đâu. Cụ vẫn nói rằng cụ còn có thể sống lâu hơn thế nữa kia. Hãy chờ mà xem. Ván cờ hay nhất của cụ còn đang ở phía trước.
Nội dung bài Podcast đến đây xin được tạm dừng. Thân mến chào tạm biệt quý vị!

Hà Nội: Nhiều cây cổ thụ bị chặt hạ để làm dự án nhưng địa phương 'không biết'

Hà Nội: Nhiều cây cổ thụ bị chặt hạ để làm dự án nhưng địa phương 'không biết'

Tại khu tập thể Thành Công, quận Ba Đình, đơn vị thi công dự án làm đường ngăn sân A4 - A5 đã chặt hạ nhiều cây xanh. Theo ghi nhận, việc thi công này đã khiến nhiều cây xanh có tuổi đời hàng chục năm bị cưa đổ. Chỉ trong vòng một ngày, 6 cây xanh tại khu vực này đã bị cưa cắt để nhường chỗ cho các công trình ngổn ngang. Nhiều người dân bày tỏ sự lo ngại sâu sắc về số phận còn lại của những gốc cây cổ thụ xung quanh khu tập thể này.

undefined
Nhiều cây cổ thụ ở phường Thành Công, quận Ba Đình đã bị chặt hạ dù chưa được cấp phép cho hoạt động này theo quy định

Nhiều cây cổ thụ ở phường Thành Công, quận Ba Đình đã bị chặt hạ dù chưa được cấp phép cho hoạt động này theo quy định

Dù nhiều cây cổ thụ đã bị chặt hạ nhưng đại diện chủ đầu tư dự án lại cho biết, đơn vị chưa nắm rõ thông tin về việc chặt hạ cây xanh. Theo ông Lê Trí Dũng, Phó Giám đốc Ban Quản lý Dự án đầu tư xây dựng quận Ba Đình, quy trình chặt hạ cây xanh phải có sự phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền, nhưng tại phường Thành Công, việc đốn hạ cây xanh lại không được thực hiện đúng quy trình này.

Theo UBND phường Thành Công, việc mở con đường này ngăn này là để giải quyết tình trạng lấn chiếm sân chung để làm nơi đậu xe và buôn bán. Tuy nhiên nhiều cư dân cho rằng con đường này không mang lại hiệu quả như mong đợi. Đường trong khu tập thể vốn đã dài, không bị tắc nghẽn nên việc mở thêm đường ngăn sân khu tập thể chỉ khiến cho khu vực này trở nên chật chội hơn.

Cũng theo người dân, những gốc cây xanh này mới được UBND phường Thành Công thi công hạng mục bó vỉa, lát đá. Chưa đầy 1 tháng sau, các hạng mục này đã bị đào lên để thi công một dự án khác, gây lãng phí ngân sách của nhà nước.

Được biết, dự án thi công đường ngăn sân tập thể là một phần trong gói thầu cải tạo hạ tầng kỹ thuật tại một số phường thuộc quận Ba Đình, với tổng mức đầu tư gần 8 tỷ đồng. Người dân cho rằng cơ quan chức năng cần xem xét kỹ lưỡng việc chặt hạ cây xanh, đầu tư có hiệu quả và hạn chế lãng phí nguồn lực của nhà nước.

Cần hiểu đúng: Kết nối dữ liệu đầu mối chưa hoá giải được số liệu ảo trên thị trường xăng dầu

Cần hiểu đúng: Kết nối dữ liệu đầu mối chưa hoá giải được số liệu ảo trên thị trường xăng dầu

Cần hiểu đúng: Kết nối dữ liệu đầu mối chưa hoá giải được số liệu ảo trên thị trường xăng dầu - Bài viết của phóng viên Lan Phương được đăng tải trên Báo điện tử Công Thương, là nội dung trong bài Podcast ngày hôm nay, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Cần hiểu đúng: Kết nối dữ liệu đầu mối chưa hoá giải được số liệu ảo trên thị trường xăng dầu

undefined
Việc cho phép thương nhân phân phối xăng dầu được mua bán xăng dầu lẫn nhau đã được cơ quan thanh tra kết luận là gây đội chi phí, phát sinh nguồn cung ảo trên thị trường (Ảnh minh hoạ: Cấn Dũng)

Bài viết: Một số ý kiến gần đây đã nhầm lẫn, vì việc kết nối dữ liệu đầu mối chưa hoá giải được số liệu ảo do thương nhân phân phối mua bán xăng dầu lòng vòng lẫn nhau.

Vừa qua, trên một số hội, nhóm kênh mạng xã hội và truyền thông đưa thông tin chưa chính xác, chưa đầy đủ về kiến nghị cho phép hay không cho phép thương nhân phân phối xăng dầu được mua bán xăng dầu với nhau. Để viện dẫn cho kiến nghị nên để thương nhân phân phối xăng dầu được mua bán xăng dầu với nhau, các ý kiến nêu lập luận: Hiện vấn đề số liệu "ảo" về lượng xăng dầu tiêu thụ trên thị trường đã được giải quyết thông qua việc kết nối dữ liệu về tổng nguồn xăng dầu, tiêu thụ, tồn kho xăng dầu… về hệ thống của Bộ Công Thương.

Tuy nhiên, trên thực tế, cách hiểu này chưa chính xác, cần được hiểu đúng như sau:

Đối với quy định thương nhân phân phối xăng dầu không được mua bán xăng dầu lẫn nhau như dự thảo Nghị định thay thế các Nghị định về kinh doanh xăng dầu được Bộ Công Thương xây dựng trình Chính phủ ban hành, qua các bài báo trước, Báo Công Thương đã phân tích rõ ràng rằng, quy định này xuất phát từ thực tế việc mua bán xăng dầu lẫn nhau của thương nhân phân phối thực hiện thời gian vừa qua đã được thanh tra Chính phủ kết luận là gây mua bán lòng vòng, phát sinh thêm khâu trung gian gây đội chi phí.

Các cơ quan quản lý và cả cơ quan pháp luật đã chỉ ra, nút thắt của vấn đề này là thương nhân phân phối hoàn toàn không thể tạo ra nguồn cung mới mà thực tế, họ phải đi mua xăng dầu từ thương nhân đầu mối. Như vậy, nếu thương nhân phân phối xăng dầu mua bán xăng dầu lẫn nhau, sẽ làm tăng lên một nấc nữa trong hệ thống phân phối xăng dầu, gây đội chi phí. Theo kết luận của cơ quan thanh tra, việc mua bán lòng vòng qua lại đã làm tăng thêm chi phí trong khâu này là một trong những nguyên nhân dẫn tới chiết khấu tại khâu bán lẻ ở mức thấp, là tình trạng đã xảy ra thời gian vừa qua.

Về thông tin cho rằng, các qui định mới về kết nối dữ liệu nguồn trong dự thảo Nghị định hiện nay đã "hoá giải" được con số ảo về số lượng xăng dầu trên thị trường, theo Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương), lập luận này chưa chính xác. Bởi lẽ, việc kết nối dữ liệu nguồn chỉ thực hiện với thương nhân đầu mối. Nếu muốn nắm số liệu từ thương nhân phân phối mà vẫn để thương nhân phân phối mua bán xăng dầu của nhau họ sẽ báo cáo số liệu cả từ đầu mối và từ các thương nhân phân phối khác nên số nguồn sẽ bị trùng.

Cần phải nói thêm rằng, việc mua bán xăng dầu giữa các thương nhân phân phối xăng dầu với nhau trên thực tế khiến cho cùng một lượng xăng dầu đưa ra tiêu thụ trên thị trường nhưng lại nằm trong số liệu báo cáo tiêu thụ xăng dầu của nhiều thương nhân phân phối xăng dầu. Khi thương nhân báo cáo số liệu này về Bộ Công Thương, dù là qua kênh nào, cũng tạo nên con số tiêu thụ "ảo" trên thị trường, gây khó khăn cho cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiểm soát nguồn cung, điều tiết thị trường.

Trong bối cảnh đó, nếu như thương nhân phân phối chỉ mua xăng dầu từ thương nhân đầu mối – thương nhân có nhiệm vụ tạo nguồn, thực hiện tổng nguồn xăng dầu thì thông qua việc kết nối dữ liệu giữa thương nhân đầu mối với Bộ Công Thương (thương nhân phân phối không phải thực hiện việc kết nối này do không phải đối tượng thực hiện nhiệm vụ tạo nguồn xăng dầu), cơ quan chức năng có công cụ để kiểm tra thực tế con số tổng nguồn này từ báo cáo của thương nhân sản xuất xăng dầu trong nước, từ con số thực tế của cơ quan hải quan đối với xăng dầu nhập khẩu. Qua đó, nắm bắt được con số chính xác để có thể điều tiết được nguồn cung. Vì xét cho cùng, đối với một mặt hàng đặc biệt như xăng dầu, đảm bảo nguồn cung cho nhu cầu sử dụng của người dân là quan trọng nhất.

Thêm nữa, mục tiêu lớn nhất của việc kết nối dữ liệu giữa thương nhân đầu mối với Bộ Công Thương là phục vụ kiểm soát nguồn cung xăng dầu cho tiêu dùng trong nước. Trong khi đó, quy định thương nhân phân phối xăng dầu không được mua bán lẫn nhau nhằm mục tiêu hạn chế việc tăng chi phí trong khâu trung gian, là một trong những nguyên nhân dẫn tới chiết khấu tại khâu bán lẻ ở mức thấp gây khó khăn cho thương nhân bán lẻ. Đây là hai vấn đề khác nhau.

Trao đổi với phóng viên Báo Công Thương, PGS.TS Ngô Trí Long – chuyên gia kinh tế cũng nêu quan điểm: “Một số doanh nghiệp phân phối có phản hồi rằng, cơ quan quản lý đề xuất việc không cho phép mua bán xăng dầu lẫn nhau là hạn chế quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng tôi cho rằng, quan điểm đó là do doanh nghiệp chỉ đứng ở góc độ của mình để nói chứ chưa nhìn một cách tổng thể. Trong trường hợp muốn tự do mua bán xăng dầu, thương nhân phân phối có thể cố gắng đáp ứng được các tiêu chí đã được quy định rõ ràng để trở thành thương nhân đầu mối và xin cấp phép. Lúc đó hoàn toàn có thể mua bán xăng dầu tự do với nhau”.

Từ kết luận của cơ quan thanh tra, cơ quan điều tra về một số vụ việc vi phạm pháp luật trong kinh doanh xăng dầu, có thể thấy, thời gian qua, một số thương nhân phân phối xăng dầu sử dụng hợp đồng mua bán xăng dầu để vay vốn ngân hàng rồi sử dụng nguồn vốn đó cho mục tiêu khác như đầu tư bất động sản, đầu tư chứng khoán… dẫn tới thua lỗ, gây lãng phí nguồn lực toàn xã hội. Thực tế này cần được chấn chỉnh trong các văn bản quy phạm pháp luật mới nhằm hạn chế tối đa những rủi ro, lãng phí nguồn lực, đảm bảo nguồn vốn dành cho xăng dầu thực sự phục vụ mục tiêu kinh doanh xăng dầu, đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân.

Dự thảo Nghị định về kinh doanh xăng dầu đã xây dựng hệ thống phân phối xăng dầu với 3 cấp (phân khúc): Thương nhân đầu mối kinh doanh xuất nhập khẩu xăng dầu - Thương nhân phân phối xăng dầu - Thương nhân bán lẻ xăng dầu, đồng thời, Dự thảo quy định cụ thể về điều kiện, quyền và nghĩa vụ của thương nhân ở từng phân khúc. Mặt hàng xăng dầu là mặt hàng kinh doanh có điều kiện, khi tham gia thị trường, các doanh nghiệp cần phải đáp ứng các điều kiện, thực hiện quyền và nghĩa vụ ở từng phân khúc mà doanh nghiệp tham gia.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai

Toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai

Xin kính chào quý vị khán thính giả đã đến với chương trình Podcast của Báo Công Thương, với những bài viết, bài báo được chúng tôi tổng hợp, tìm hiểu và được thể hiện lại qua giọng đọc của BTV Thanh Thảo.

Thưa quý vị! Bài báo với nhan đề “Toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai”, bài viết được đăng tải trên Báo điện tử Công Thương ngày 23/9/2024 trên trang web congthuong.vn sẽ được chúng tôi chia sẻ trong mục Podcast - Thời sự ngày hôm nay. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã tham dự và có bài phát biểu quan trọng tại phiên khai mạc Hội nghị Thượng đỉnh Tương lai.

Theo đặc phái viên TTXVN, ngày 22/9, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã tham dự và có bài phát biểu quan trọng tại phiên khai mạc Hội nghị Thượng đỉnh tương lai trong khuôn khổ Tuần lễ cấp cao khóa 79 Đại hội đồng Liên hợp quốc.

Báo Công Thương xin trân trọng giới thiệu bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước:

Thưa Ngài Chủ tịch Đại hội đồng Liên Hợp Quốc,

Thưa Ngài Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc,

Thưa các Quý vị,

Lịch sử phát triển của loài người đến nay đã chứng kiến những tiến bộ to lớn. Trí tuệ con người đã giúp thay đổi thế giới, giúp cho cuộc sống nhân loại tốt đẹp hơn, phát triển hơn, hoàn thiện hơn về mọi mặt. Song cũng chính con người là tác nhân gây ra những khó khăn, thách thức mà nhân loại đang phải đối mặt.

Cụ thể, đó là nguyên nhân gây ra biến đổi khí hậu, dịch bệnh, sự suy kiệt tài nguyên hay chế tạo các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt... Ngay lúc này đây, sự lựa chọn ở hiện tại sẽ định hình tương lai của chúng ta.

Trước sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, mục tiêu phát triển bền vững của thế giới và lợi ích của con người phải được đặt ở vị trí trung tâm, là mục tiêu cao nhất của chúng ta.

Thành tựu khoa học, công nghệ phải phục vụ tiến bộ xã hội, hướng về con người, giải phóng con người, phát triển con người toàn diện, không ngừng cải thiện đời sống, bảo đảm lợi ích và hạnh phúc của nhân loại và vì thế hệ tương lai.

Thành tựu khoa học công nghệ cần thúc đẩy hợp tác, không trở thành công cụ chống lại các quốc gia, đi ngược lại khát vọng hòa bình, phát triển, công bằng và công lý của các dân tộc.

Thành tựu của trí tuệ con người phải tập trung vào phát triển kinh tế, xây dựng xã hội công bằng, văn minh, nâng cao chất lượng sống người dân, xóa đói giảm nghèo. Theo đó chúng tôi đề nghị tăng cường đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu y học, giáo dục đào tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và các giải pháp để phục vụ quảng đại quần chúng nhân dân, giảm thiểu đầu tư nghiên cứu chế tạo các loại vũ khí hủy diệt với mục tiêu hòa bình, ổn định, phát triển bền vững, bình đẳng giữa các quốc gia, các dân tộc trên toàn thế giới.

Trong giai đoạn mang tính bước ngoặt này, chúng ta càng cần phải tăng cường đoàn kết, hợp tác và tôn trọng lẫn nhau, tuân thủ luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc và giải quyết các bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp hoà bình.

Các nước lớn cần hành xử có trách nhiệm, phải chia sẻ thành tựu chung trong nghiên cứu khoa học công nghệ để cùng phát triển.

Liên hợp quốc, các tổ chức khu vực, trong đó có ASEAN cần phải đi đầu với sứ mệnh thúc đẩy hợp tác, phối hợp hành động trong ứng phó với các thách thức toàn cầu và tận dụng những cơ hội có được từ tiến bộ khoa học công nghệ.

Chúng ta đang đứng trước cơ hội lịch sử để đưa thế giới bước vào thời đại mới, kỷ nguyên phát triển mới tốt đẹp hơn, vì sự phát triển tiến bộ, công bằng xã hội, vì cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của người dân khi chúng ta thống nhất nhận thức cùng hành động, cùng nỗ lực và hợp tác chặt chẽ hiệu quả.

Việt Nam hoan nghênh những văn kiện được thông qua tại Hội nghị và hy vọng những nội dung văn kiện sẽ được triển khai quyết liệt, hiệu quả. Chúng tôi mong muốn Liên hợp quốc với vai trò trung tâm, điều phối và các tổ chức quốc tế tiếp tục có những đóng góp thiết thực hơn, hiệu quả hơn, mạnh mẽ hơn trong mục tiêu ngăn ngừa hiểm họa đối với sự phát triển nhanh, bền vững của thế giới ngay từ ngày hôm nay.

Việt Nam cam kết sẽ đóng góp tích cực, hiệu quả vào các nỗ lực chung nhằm xây dựng thế giới hòa bình, phát triển bình đẳng vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân loại.

Xin trân trọng cảm ơn.

Tô Lâm

Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam

Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Tham gia đoàn công tác Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm và Phu nhân cùng đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam tới Hoa Kỳ và sau đó là thăm Cuba, đoàn công tác Bộ Công Thương do Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên làm Trưởng đoàn, đi cùng Bộ trưởng có đại diện Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ và một số đơn vị.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Chuyện chưa kể về đêm chạy lụt lịch sử của dân bãi giữa sông Hồng

Chuyện chưa kể về đêm chạy lụt lịch sử của dân bãi giữa sông Hồng

Xin kính chào quý vị khán thính giả đã đến với chương trình Podcast của Báo Công Thương, với những bài viết, bài báo được chúng tôi tổng hợp, tìm hiểu và được thể hiện lại qua giọng đọc của BTV Thanh Thảo.

Thưa quý vị! Bài báo với nhan đề “Chuyện chưa kể về đêm chạy lụt lịch sử của dân bãi giữa sông Hồng”, bài viết được đăng tải trên Báo điện tử Dân Trí của tác giả Ngọc Tân, ngày 23/9/2024 trên trang web dantri.vn sẽ được chúng tôi chia sẻ trong mục Podcast - Văn hóa - Xã hội ngày hôm nay. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Chuyện chưa kể về đêm chạy lụt lịch sử của dân bãi giữa sông Hồng

Khi lũ trên sông Hồng lại cuồn cuộn đổ về, cả xóm phao í ới gọi nhau chạy lụt. Nước sông dâng nhanh, tràn vào cái vũng tù nơi hơn 20 căn nhà phao đang neo đậu và khoảng chục căn lều dựng sát mép nước.

Chắc chắn rằng Mía - cô con gái 5 tháng tuổi - đã được người nhà bế đi trước, Hiền mới lội bì bõm trở lại căn lều xập xệ của mình dưới chân cầu Long Biên.

Cô đảo mắt một lượt nhìn đồ đạc trong phòng. Giường cũi, ghế ăn dặm, tủ nhựa đựng bỉm sữa... đang ngập trong nước phù sa. Người mẹ trẻ vơ vội tấm giấy khai sinh của con rồi dò dẫm chạy ngược về phía chân cầu.

Khi đó là 23h30 đêm 8/9, vài tiếng đồng hồ trước khi lũ sông Hồng nhấn chìm bãi giữa.

Hai lần tháo chạy

Ngày 7/9, bão Yagi quét qua Hà Nội với sức gió khủng khiếp. Cả xóm bãi giữa với 45 hộ dân dưới chân cầu Long Biên phải đi sơ tán.

"Anh Dũng công an khu vực xuống hỏi thăm và nhắc nhở, trẻ con với các cụ già phải đi hết. Có gia đình ông Thành bà Thủy sức yếu muốn ở lại giữ nhà, phường họ cũng đưa thẳng đi luôn", ông Nguyễn Đăng Được, trưởng xóm, kể lại với phóng viên.

Hôm đó, Trần Thu Hiền (26 tuổi, cư dân bãi giữa) cùng chồng và con gái trú bão trong căn nhà tôn của một hộ kinh doanh hải sản phía sau chợ Long Biên.

Căn nhà sau chợ kiên cố hơn cái lều của 2 vợ chồng ở bãi giữa, nhưng vẫn nằm ngoài đê, gần một con rạch đen ngòm, vẫn thuộc cái không gian lúp xúp tạm bợ ngoài rìa thành phố. Đêm bão, Hiền ôm con nghe gió quật mái tôn, nghĩ về căn lều tuềnh toàng của mình.

Sáng 8/9, bão tan. 2 vợ chồng cùng hàng xóm chạy về nhà kiểm đếm thiệt hại. Từ trên cầu Long Biên, họ đã thấy cây cối ở bãi giữa bị quật nghiêng ngả, cả vườn chuối đổ rạp về một hướng.

Xuống đến xóm phao, họ gặp vài thanh niên khỏe mạnh được cắt cử ở lại từ trước bão để trông nom tài sản. Vài căn nhà phao bị bung vách, trôi thùng phuy, tấm năng lượng mặt trời trên mái bay tứ tán. Căn lều của vợ chồng Hiền ở trên bờ cũng xiêu vẹo. Cả xóm tự an ủi nhau vì bão to không làm chết người.

Chiều hôm đó, Tuấn (28 tuổi, chồng Hiền) quay lại chợ Long Biên làm việc. Hiền và Mía ở nhà. Ông ngoại Mía căng thêm tấm bạt trên nóc lều để mưa đỡ hắt.

Sau cơn bão dữ, cư dân trong phố bước ra khỏi những căn nhà kiên cố và thở phào. Có người tươi cười chụp ảnh bên những thân cây đổ ngổn ngang.

Dân bãi giữa thì không được phút yêu đời như vậy. Họ còn chưa kịp chằng néo lại căn lều cho hẳn hoi thì lũ trên sông Hồng lại cuồn cuộn đổ về.

Tối 8/9, cả xóm phao í ới gọi nhau chạy lụt. Nước sông dâng nhanh, tràn vào cái vũng tù nơi hơn 20 căn nhà phao đang neo đậu và khoảng chục căn lều dựng sát mép nước. Suốt 2-3 ngày, nước chỉ một đà dâng. Tới ngày 12/9 thì chạm tới ngọn cây già trong xóm.

Tuấn không thể bỏ dở ca làm để về. Hiền một mình xoay xở chạy lũ. Cô nhờ người chị ôm con gái chạy trước, còn mình chạy vào lều vơ vội vài bộ quần áo và giấy tờ khai sinh của con.

Lần này, khu nhà tôn phía sau chợ Long Biên cũng không thể tá túc được nữa. Mấy gia đình ở xóm góp tiền thuê nhà nghỉ để ngủ trong đêm đầu tiên chạy lụt.

Sáng sớm 9/9, Tuấn kết thúc ca làm việc thâu đêm ở chợ Long Biên. Biết vợ con đã chạy lụt đến nơi an toàn, anh phóng xe máy về xóm để mong lấy được chiếc ví còn cất trong tủ.

Nước sông Hồng khi đó đã cao ngập vườn chuối. Tuấn vừa bám dây cáp điện vừa bơi về phía căn lều của mình. Lóp ngóp 2 tiếng mới tới nơi, anh nhận ra cả căn lều đã chìm dưới nước. Xung quanh, chủ các nhà phao đang hối hả nới dây neo để căn nhà kịp nổi theo đà nước lên.

Khi nước lụt ập đến xóm bãi giữa, những căn nhà phao đã cho thấy sức chống chịu kiên cường. Tuy vậy, nhiều tài sản quan trọng để duy trì sinh hoạt như thùng lọc nước, máy nổ, bình điện... đã hư hỏng hoặc bị lũ cuốn trôi.

"Nhà cửa hư hỏng, nước sạch không có, điện không có, dân xóm vẫn đang ở nhờ mấy nơi", ông Được nói và cho biết Tổ chức Trẻ em Rồng Xanh (Blue Dragon Children's Foundation) đang chi trả tiền thuê nhà nghỉ cho cư dân xóm phao ở tạm tại Nghi Tàm và Đầm Trấu.

Cuộc di tản lần 2 của người dân bãi giữa tưởng chỉ ít hôm, nhưng đã kéo dài gần 2 tuần.

Mãi đến hôm nước rút, Tuấn mới tiếp cận được căn lều của mình. Nó bị đổ sập, bên trong đầy bùn. Chiếc tủ nhựa đựng ví tiền trôi đi đâu mất. Đến khi bước xuống căn nhà phao của hàng xóm, anh mới thấy xác tủ lập lờ trên mặt nước, có sợi dây neo tạm vào bờ. Đồ đạc trong tủ đã bị cuốn trôi.

"Có mấy bộ quần áo mới mua cho Mía, chưa kịp mặc, cả cái xoong quấy bột mới, giờ ngập dưới bùn hết rồi", ông bố trẻ than thở. Chiếc ví chứa giấy tờ tùy thân của anh và 3 triệu đồng "dự phòng" của 2 vợ chồng cũng trôi theo nước lũ.

Trong một nhà nghỉ tại Nghi Tàm, bà Nguyễn Thị Hồng ngồi ủ ê cùng mấy người hàng xóm. Sau bão, căn nhà phao của bà bị gió giật tốc mái, đứt neo, trông xập xệ như ổ chuột.

Đã hơn 10 ngày nay, họ tá túc tạm bợ và ăn cơm hộp do các nhóm thiện nguyện chuyển đến. "Nấu kiểu gì? Bếp ở đâu nữa mà nấu? Bếp dưới đống bùn kia kìa", bà than thở.

Với chiếc xe máy cũ, bà Hồng cứ chạy đi chạy về giữa Nghi Tàm và bãi giữa. Phần để trông nom tài sản còn sót lại, phần để nhận cơm từ thiện và nghe ngóng về các chương trình cứu trợ.

Theo ông Được, mỗi căn nhà phao 30m2 xây mới cũng phải tốn cả trăm triệu đồng. "Chúng tôi vẫn đang chạy ăn từng bữa, chứ nghĩ đến chuyện làm lại nhà thì bất lực", vị trưởng xóm nói.

Từ xóm ngụ cư bãi giữa đến trụ sở chính quyền thành phố Hà Nội là 2km đường chim bay. Sự tồn tại của cộng đồng ở đây suốt 3 thập niên qua phản ánh cái nghèo khó và bất bình đẳng vẫn còn đó giữa lòng thành phố.

Trong thiên tai, người nghèo chịu thiệt hại nhiều hơn. Họ có ít nguồn lực hơn để khắc phục hậu quả và tốn nhiều thời gian hơn để quay về cuộc sống bình thường. Như gia đình Hiền, người chồng trẻ phải đánh đổi giữa công việc mưu sinh với trách nhiệm lo cho vợ con khi nước lũ ập đến.

Giấc mơ làm người Hà Nội

Hiền vốn là dân gốc ở phường Bạch Đằng (quận Hai Bà Trưng). Sau một biến cố, cả nhà cô phải dắt nhau ra bãi giữa khi cô mới 4 tuổi. Lớn lên ngoài bãi, Hiền chỉ học hết lớp 5. Đến 12 tuổi, cô đã đi bán trà chanh, chạy việc trong phố để phụ kinh tế cho bố mẹ.

Gia đình Hiền cũng từng có một căn nhà phao. Năm cô 18 tuổi, bố mẹ bán cái nhà phao được 30 triệu rồi gom góp để lo cho cô đầy đủ giấy tờ hộ tịch, chứng minh thư, giấy khai sinh... Đời cô từ lúc có giấy tờ mới bớt khổ hơn, từ xin việc, ký hợp đồng lao động đến làm đám cưới.

Trong cơn lũ dữ, nỗi ám ảnh lớn nhất với Hiền không phải là mất tài sản, mà là mất tờ giấy khai sinh của con gái. Từ nỗi khổ đời mình, mong mỏi lớn nhất của cô là thế hệ tương lai có tư cách làm người thủ đô, được chính quyền thừa nhận về mặt hộ tịch.

"Cố gắng dành dụm mới lo được cho Mía tờ giấy khai sinh và hộ khẩu. Ít nhất là sau này con cũng không bị các bạn bảo nhà quê, hay phân biệt thành phố hay nông thôn", Hiền tâm sự.

Ngoài tổ chức Trẻ em Rồng Xanh, một số nhóm thiện nguyện cũng bắt đầu xuống bãi giữa để hỗ trợ các hộ dân chịu thiệt hại. Đôi mắt Hiền ánh lên niềm vui khi nhận một bịch bỉm và thùng cháo tươi từ nhóm cứu trợ.

Ở bãi giữa, nhiều người 70 - 80 tuổi vẫn sống mà không có giấy tờ tùy thân. Họ là người già nhất của gia đình 3 thế hệ. Không ai muốn cái vòng nghèo đói và vô danh tính tiếp tục lặp lại với những đứa cháu của mình.

"Xóm có 112 nhân khẩu, quá nửa không có giấy tờ hộ tịch gì. Mấy năm gần đây cố gắng lắm mới lo được giấy khai sinh cho lũ trẻ con, để chúng nó đi học thoát mù chữ", ông Được kể về cái xóm nghèo của mình.

Hàng ngày, dân trong xóm đi làm thuê ở chợ đầu mối, đi nhặt đồng nát hoặc làm thuê trong phố. Hết ngày, họ đi xuống chiếc cầu thang sắt nối với cầu Long Biên để trở về nhà.

Đời ai cũng trầm luân ít nhiều, phiêu bạt giang hồ tứ chiếng. Nói như bà Hồng, một người gốc Hà Tây cũ, "Ai cũng có quê để gọi, nhưng không còn quê để về".

Đến khi tụ lại thành chòm xóm, họ biết sống hòa thuận và đùm bọc nhau. "Nếu không tan hoang vì bão thì ở đây vui lắm anh ạ", Hiền nói trong lúc dỗ con ngủ tại căn nhà phao của người hàng xóm.

Trung thu năm ngoái, đoàn múa lân đến xóm góp vui cho trẻ con. Trung thu năm nay thì không. Đường vào xóm cũng vừa phải dọn mất 2 ngày mới hết lầy lội.

Người dân bãi giữa không xây lên những khối bê tông khổng lồ, không ẩn mình trong phòng máy lạnh. Cộng đồng này không phát thải nhiều, nhưng đang phải hứng chịu những sự biến đổi cực đoan của thời tiết thủ đô.

Những ngày hè nắng nóng kỷ lục, những mùa đông lạnh thấu xương, và vừa qua là mùa lụt kinh hoàng phá tan nơi ở của họ.

Khoảng 30 năm qua, xóm bãi giữa sông Hồng là nơi nhiều người lao động vô gia cư tìm đến. Chính quyền không cho xây dựng trên đất bãi, họ dành dụm tiền xây những căn nhà nổi trên mép sông.

Nhà được thiết kế đơn giản, gồm vài chục thùng phi bằng sắt hoặc nhựa kết lại làm sàn nổi, phía trên dựng vách tôn hoặc vá víu bằng ván gỗ, bạt thừa...

Một số hộ không có điều kiện xây nhà phao thì thuê đất nông nghiệp của dân bản địa rồi dựng tạm căn lều trên bãi. Ở lều nóng hơn, nhiều rắn rết và quan trọng là không thể thích ứng khi nước lũ về.

Nhà nào cũng có bình ắc quy để chạy quạt và bóng đèn, sạc bình bằng tấm năng lượng mặt trời gắn trên nóc. Người dân đào giếng khoan, hút nước từ giếng bằng máy bơm cắm điện máy nổ. Nước từ giếng lên vẫn đục, phải lọc qua mấy lớp cát sỏi mới có thể nấu ăn, tắm giặt.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Văn hóa Xã hội của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Thủ tướng chủ trì hội nghị làm việc với các doanh nghiệp lớn về giải pháp góp phần phát triển đất nước

Thủ tướng chủ trì hội nghị làm việc với các doanh nghiệp lớn về giải pháp góp phần phát triển đất nước

Xin kính chào quý vị khán thính giả đã đến với chương trình Podcast của Báo Công Thương, với những bài viết, bài báo được chúng tôi tổng hợp, tìm hiểu và thể hiện lại qua giọng đọc của BTV Thanh Thảo.

Thưa quý vị! Bài báo với nhan đề “Thủ tướng chủ trì hội nghị làm việc với các doanh nghiệp lớn về giải pháp góp phần phát triển đất nước” của tác giả Chí Tâm, được đăng tải trên Báo điện tử Công Thương tại trang web congthuong.vn ngày 21/9/2024 sẽ được chúng tôi chia sẻ trong mục Podcast - Thời sự của Báo Công Thương. Kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Thủ tướng chủ trì hội nghị làm việc với các doanh nghiệp lớn về giải pháp góp phần phát triển đất nước

Sáng 21/9, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Hội nghị Thường trực Chính phủ làm việc với các doanh nghiệp lớn.

Đây được ví như "Hội nghị Diên Hồng" của doanh nghiệp tư nhân, được trông đợi sẽ gợi mở nhiều giải pháp khả thi để phát huy tối đa tiềm lực, vai trò tiên phong, dẫn dắt của các doanh nghiệp này, đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.

Cùng tham dự hội nghị có các Phó Thủ tướng Chính phủ: Trần Hồng Hà, Lê Thành Long, Hồ Đức Phớc; lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương; lãnh đạo các doanh nghiệp: Vin Group, Hòa Phát, Thaco, KN Holdings, Sun, T&T, Geleximco, Minh Phú, Masan, Sovico, TH, Cơ điện lạnh (REE).

Động lực quan trọng của nền kinh tế

Phát biểu khai mạc, Thủ tướng Phạm Minh Chínhcho biết, từ đầu nhiệm kỳ tới nay Chính phủ đã có nhiều cuộc làm việc với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, đặc biệt là trong giai đoạn phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội sau đại dịch Covid-19. Tuy nhiên, đây là cuộc làm việc đầu tiên theo chuyên đề được tổ chức và các cơ quan sẽ tiếp tục nghiên cứu, tham mưu tổ chức các hội nghị chuyên đề tiếp theo.

Thủ tướng cho biết, hiện nay, kinh tế tư nhânđóng góp khoảng 45% GDP, tạo ra khoảng 30% nguồn thu ngân sách nhà nước, thu hút khoảng 85% lực lượng lao động; tỷ lệ đóng góp thuế thu nhập doanh nghiệp chiếm khoảng 34%. Một lực lượng doanh nghiệp tư nhân lớn, tích lũy đủ năng lực về quy mô vốn, trình độ công nghệ và quản trị doanh nghiệp, có thương hiệu vươn ra thị trường khu vực và thế giới. Thủ tướng nhấn mạnh, hội nghị thể hiện sự quan tâm của lãnh đạo Đảng, Nhà nước với các doanh nghiệp tư nhân, khu vực kinh tế tư nhân. Nghị quyết Đại hội XII, Nghị quyết Trung ương 10 khóa XII và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đều nhấn mạnh kinh tế tư nhân là "một động lực quan trọng của nền kinh tế".

Trong đại dịch Covid-19, các doanh nghiệp đã có đóng góp tích cực, hiệu quả để cùng cả dân tộc vượt qua đại dịch Covid-19, kiểm soát dịch bệnh, nhanh chóng đưa đất nước ta trở lại trạng thái bình thường.

Mặc dù còn không ít khó khăn, song sau gần 40 năm đổi mới, "đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như hiện nay", đang bước vào giai đoạn chuyển mình mới, Thủ tướng Chính phủ mong muốn các doanh nghiệp tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, cùng đất nước phát triển, với tinh thần "cùng làm, cùng thắng, cùng phát triển"; cùng cả nước tạo đột phá phát triển đất nước.

Thủ tướng cũng cho biết, ông cảm nhận rất rõ sự tham gia của các doanh nghiệp trong khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ như siêu bão Yagi vừa qua, các doanh nghiệp đã phát huy mạnh mẽ tinh thần tương thân tương ái, tình dân tộc, nghĩa đồng bào.

Tiếp tục tiên phong, đổi mới sáng tạo

Nhấn mạnh quan điểm "nguồn lực bắt nguồn từ tư duy, tầm nhìn, động lực bắt nguồn từ sự đổi mới, sức mạnh bắt nguồn từ nhân dân và doanh nghiệp”, theo Thủ tướng, chúng ta phải có những đột phá, bứt phá trong giai đoạn tới để đưa đất nước bước sang kỷ nguyên mới, kỷ niệm 100 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và hướng tới kỷ niệm 100 năm ngày thành lập nước.

Thủ tướng mong muốn doanh nghiệp Việt Nam tiên phong trong đổi mới sáng tạo, tham gia tích cực thực hiện các đột phá chiến lược, trong đó có thể chế, pháp luật, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; làm mới các động lực tăng trưởng truyền thống, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo là động lực tăng trưởng mới của đất nước, cùng đất nước phát triển nhanh và bền vững; phấn đấu đạt các mục tiêu lớn vào dịp 100 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2030) và 100 năm thành lập nước (năm 2025).

Trong đó, hoàn thành một số công trình mang tính biểu tượng, như: Đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam, hệ thống đường bộ cao tốc; chăm lo tốt hơn công tác an sinh xã hội, với việc xóa nhà dột nát, nhà tạm vào năm 2025; không còn hộ đói nghèo vào năm 2030…

Thủ tướng nêu rõ, đất nước đang có khí thế phát triển mới rất rõ, các doanh nghiệp tư nhân có tầm nhìn và sứ mệnh đóng góp cho phát triển đất nước, tiếp tục tiên phong đổi mới sáng tạo, triển khai các đột phá chiến lược, trong đó có xây dựng pháp luật, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng đất nước, cùng dân tộc tiếp tục đi lên, phát triển nhanh và bền vững.

Tại Hội nghị này, Thường trực Chính phủ muốn được lắng nghe chia sẻ của các doanh nghiệp về tình hình hoạt động, các khó khăn vướng mắc, kiến nghị các giải pháp tháo gỡ, chia sẻ suy nghĩ, tầm nhìn, cùng với các doanh nghiệp lớn tiên phong xác định và cùng thực thi các dự án mang tầm quốc gia, tìm ra giải pháp cho các bài toán lớn của đất nước nhằm đạt được mục tiêu đưa nước ta trở thành quốc gia đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 như đã đề ra tại Đại hội XIII của Đảng.

Thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 7)

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 7)

Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast – Trò chuyện cùng Công Thương ngày hôm nay, bài viết của tác giả Hà Nam (giới thiệu) được đăng tải trên trang Thông tin điện tử của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tại trang web pvn.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Mùa thu năm 1896, một người đàn ông còn khá trẻ, được tôi luyện bởi cuộc sống ở vùng Viễn Đông và có chút danh tiếng trong giới kinh doanh dầu lửa, đã đi qua Singapore trong chuyến hành trình từ Anh tới một khu rừng xa xôi và gần như vô danh được gọi là Kutei trên bờ biển phía Đông của Borneo.

Chương 6: Những cuộc chiến dầu mỏ: Sự trỗi dậy của Royal Dutch và sự suy vong của đế chế Nga

Mùa thu năm 1896, một người đàn ông còn khá trẻ, được tôi luyện bởi cuộc sống ở vùng Viễn Đông và có chút danh tiếng trong giới kinh doanh dầu lửa, đã đi qua Singapore trong chuyến hành trình từ Anh tới một khu rừng xa xôi và gần như vô danh được gọi là Kutei trên bờ biển phía Đông của Borneo. Hành tung của anh được một nhân viên của Standard Oil ở Singapore nhanh chóng ghi lại và báo cáo về New York: "Một người đàn ông có tên Abrahams, nghe nói là một người cháu của M. Samuel, của… Xanh-đi-ca của nhà Samuel, từ London tới và ngay lập tức đi đến Kutei, nơi có tin đồn rằng nhà Samuel thuê được những khu vực rộng lớn có dầu. Vì Abrahams chính là người đã khởi đầu lĩnh vực kinh doanh dầu lửa trong các bể chứa ở Singapore và Penang, xây dựng nhà máy ở cả hai nơi này nên chuyến đi của anh ta tới Kutei có thể mang một ý nghĩa nào đó".

Quả thật là như vậy. Vì Mark Abrahams được các bác cử tới để khai thác mỏ dầu mà công ty dầu mỏ của nhà Samuel rất cần để duy trì địa vị, thậm chí là để bảo đảm sự sống còn. Trong vụ làm ăn này, Marcus Samuel bị đặt dưới áp lực của sự cưỡng bách vốn có trong lĩnh vực kinh doanh dầu lửa. Bất kỳ ai hoạt động trong ngành này cũng luôn đi tìm sự cân bằng. Khi đầu tư vào bộ phận này của dầu lửa, họ đồng thời phải đầu tư cả vào bộ phận khác để duy trì tính khả thi của khoản đầu tư trước đó. Muốn đầu tư của mình có giá trị, các nhà sản xuất cần thị trường.

Marcus Samuel từng nói: "Sản xuất ra dầu lửa đơn thuần hầu như chỉ đem lại giá trị thấp nhất và địa vị kém hấp dẫn nhất cho thứ nhiên liệu này. Phải tìm được thị trường. Trong khi đó, các hãng lọc dầu lại cần cả nguồn cung và thị trường, vì một nhà máy lọc dầu không được sử dụng thì cũng không hơn gì đống sắt thép phế liệu. Các công ty cần có dầu để mua và bán, nếu không, chắc chắn họ sẽ thua lỗ. Mức độ cấp thiết của những nhu cầu đó thay đổi tùy theo từng thời điểm, tuy nhiên tính cưỡng bách cơ bản thì lại là một hằng số của ngành công nghiệp.

Cuối thập niên 1890, với khoản tiền đầu tư khổng lồ vào tàu chở dầu và hệ thống kho chứa, Marcus Samuel rất cần một nguồn cung cấp dầu lâu dài. Là một thương gia, ông quá hiểu rõ điều này. Hợp đồng dầu lửa với nhà Rothschild sẽ hết hạn vào tháng 10 năm 1900. Liệu ông có thể hy vọng được gia hạn hợp đồng? Dù sao, mối quan hệ giữa ông và nhà Rothschild là một mối quan hệ không bền vững và luôn có khả năng những ông chủ nhà băng này quay sang thỏa thuận với Standard Oil. Ngoài ra, việc phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn dầu lửa của Nga là rất nguy hiểm.

Samuel phàn nàn, cước phí vận tải ở Nga thay đổi tùy tiện khiến các nguyên lý kinh tế rối tung, biến ngành kinh doanh dầu lửa ở Nga thành một lĩnh vực "giật gấu vá vai" và "đẩy những ai buôn bán dầu lửa với nước này vào một vị thế bất lợi lớn so với các đối thủ Mỹ hùng mạnh". Ngoài ra, những mối nguy hiểm khác như: Sản lượng dầu lửa từ vùng Đông Ấn Hà Lan đang tăng lên, cùng với những quãng đường vận tải ngắn hơn và cước phí vận tải rẻ hơn, khiến Samuel gặp khó khăn trong việc duy trì khả năng cạnh tranh ở vùng Viễn Đông.

Mặt khác, bất cứ lúc nào, Standard Oil cũng có thể huy động mọi nguồn lực để mở một cuộc chiến tổng lực nhằm hủy diệt Shell. Samuel hiểu một điều rất đơn giản rằng ông cần phải khai thác dầu, phải có dầu thô của chính ông để bảo vệ thị trường và những khoản đầu tư của mình – thực tế là, để bảo đảm sự sống còn của Shell. Tiểu sử của Samuel viết: "Trong cuộc săn tìm dầu lửa, ông chỉ còn thiếu nước hóa điên".

Rừng nhiệt đới

Năm 1895, nhờ những nỗ lực của một kỹ sư khai mỏ người Hà Lan đã có tuổi và bị ám ảnh bởi dầu lửa, người đã dành cả quãng đời trưởng thành của mình trong những khu rừng nhiệt đới ở Đông Ấn, Samuel đã thuê được một mỏ dầu ở khu vực Kutei thuộc Đông Borneo. Mỏ dầu này trải dài hơn 50 dặm dọc theo bờ biển và vươn sâu vào tận trong rừng. Khu rừng rậm rạp và xa xôi này chính là nơi Mark Abrahams được phái tới giám sát công việc khai thác dầu. Anh không hề có kinh nghiệm khoan tìm hay lọc dầu. Tuy anh đã tổ chức việc xây dựng các kho chứa dầu ở Viễn Đông, nhưng điều đó hầu như chẳng giúp được gì trong nhiệm vụ mới và khó khăn hơn nhiều. Sự thiếu kinh nghiệm của Mark Abrahams còn được phản chiếu trên một quy mô lớn hơn trong trường hợp của chính Marcus Samuel. Đó là cái cách ông làm kinh doanh – nỗi ác cảm với công việc tổ chức cũng như phương pháp phân tích và lên kế hoạch có hệ thống, cùng với sự thiếu hụt đội ngũ quản lý và nhân viên có năng lực – đã khiến công việc trong khu rừng nhiệt đới ở Borneo càng thêm khó khăn.

Những con tàu luôn đến sai giờ và chở thiết bị không đúng yêu cầu, thậm chí còn không có cả bảng kê khai hàng hóa. Hàng hóa được dỡ ngay xuống bãi biển, buộc các công nhân phải dừng mọi việc khác để tập hợp và xếp loại các thiết bị. Nhiều thiết bị được chở tới cuối cùng cũng bị vứt lay lắt cho đến khi hoen gỉ trên những bãi cỏ mọc cao. Thậm chí, không có sự điều hành lộn xộn và rời rạc từ London, công việc ở đây cũng đã vô cùng khó khăn. Borneo là một nơi xa xôi với thế giới bên ngoài, còn hơn cả Sumatra. Cảng gần nhất để lấy hàng tiếp tế và thiết bị cách đó một nghìn dặm, ở tận Singapore.

Con đường liên lạc duy nhất với Singapore là thông qua những con tàu lẻ loi đi ngang qua Borneo một hai tuần một lần. Các nhóm công nhân, bị chia ra trên những khu vực khác nhau của mỏ dầu, phải liên tục vật lộn với rừng rậm. Họ cố gắng lắm mới mở được một con đường dài bốn dặm để đi ngang qua khu rừng tới một nơi có dầu rỉ ra được gọi là Điểm Đen, nhưng chỉ trong vòng một vài tuần cây cối mọc rậm trở lại.

Về mặt nhân công, dự án phải phụ thuộc vào những người khuân vác đưa từ Trung Quốc sang vì các nhà tuyển người địa phương không mấy tha thiết với công việc này. Bệnh tật và những trận sốt liên tục tấn công những người làm việc trên các khu khai thác dầu. Thông thường, mỗi khi Abrahams ngồi dậy lúc nửa đêm để viết báo cáo gửi về nhà, chính anh cũng ở trong trạng thái nửa mê sảng vì sốt. Tỷ lệ tử vong của những người làm việc tại nơi này, gồm các công nhân Trung Quốc, các nhà quản lý châu Âu và thợ khoan Canada, rất cao. Một số người chết trên tàu, thậm chí trước khi họ tới nơi. Những mảnh gỗ mà họ cố gắng dùng để xây bất cứ thứ gì, dù là một ngôi nhà, một cây cầu hay một bức tường, đều nhanh chóng mục ruỗng.

undefined

Marcus Samuel.

"Những cơn mưa nhiệt đới nóng, ẩm, làm mục rữa và phá hủy mọi thứ" dai dẳng bám lấy họ. Một lần nữa, những người nhà Samuel ở London và Mark Abrahams ở Borneo bắt đầu trao đổi thư từ với những lời lẽ xỉ vả mạnh mẽ, đầy bão tố, như họ đã làm trong những ngày xây dựng các kho chứa dầu ở vùng Viễn Đông. Bất kể Abrahams làm việc gì và công việc đó khó nhọc và đáng nản đến mức nào, các ông bác của anh cũng không cảm thấy hài lòng. Họ không thể hiểu được thực trong khu rừng nhiệt đới này. Khi Marcus Samuel cằn nhằn rằng những ngôi nhà xây cho người châu Âu làm việc tại mỏ dầu là "những tòa biệt thự" sang trọng, trông giống như "hai khu nghỉ mát", Abrahams giận dữ đáp lại: "Những tòa biệt thự" của họ tạm bợ đến nỗi "một cơn gió mạnh hoặc trận mưa to có thể mang đi cả mái nhà. Những ngôi nhà ở đây chỉ thích hợp để nhốt lợn".

Tuy vậy, bất chấp tất cả, tháng 1 năm 1897, giếng dầu đầu tiên đã được phát hiện, và tới tháng 4 năm 1898, giếng dầu phun đầu tiên được tìm thấy. Tuy nhiên, từ chỗ phát hiện ra dầu đến sản xuất thương mại còn cần thêm nhiều nỗ lực. Ngoài ra, dầu thô Borneo lại có hàm lượng dầu hỏa thấp. Mặc dù vậy, khi chưa được lọc, loại dầu này có thể được dùng làm dầu nhiên liệu. Tính chất này của dầu thô nặng Borneo đã đặt nền móng cho một tầm nhìn mà sau này, Samuel luôn hăng hái theo đuổi. Ông gọi tầm nhìn này là "vai trò to lớn mà dầu lửa, ở dạng hợp lý nhất của nó, có thể nắm giữ, vai trò của năng lượng".

Khi thế kỷ XX đang đến gần, Samuel nhìn về phía trước để tiên toán, và đúng như vậy, trong tương lai vĩ đại của dầu lửa, đây sẽ không chỉ là một nguồn chiếu sáng mà còn là một nguồn năng lượng. Còn Marcus Samuel sẽ trở thành người đề xướng mạnh mẽ nhất việc chuyển tàu bè từ chạy than sang chạy dầu. Sự phát triển có tính chất lịch sử đó đã thật sự nhen nhóm vào những năm 1870, khi ostaki, tên gọi Nga của phần bã thừa trong quá trình lọc hóa lấy dầu hỏa, lần đầu tiên được sử dụng để chạy tàu trên biển Caspi thành công. Chính sự thúc bách về nguồn năng lượng đã làm nảy sinh phát minh này: Nga phải nhập khẩu than từ Anh với chi phí rất cao, còn củi lại rất hiếm hoi tại nhiều vùng của đế quốc này. Sau đó, những con tàu đi trên tuyến đường sắt mới xuyên Siberia bắt đầu sử dụng dầu nhiên liệu do công ty của Samuel cung cấp qua Vladivostok, thay vì dùng than hay củi. Hơn nữa, vào thập niên 1890, Chính phủ Nga cũng khuyến khích sử dụng dầu lửa làm nhiên liệu để đẩy mạnh sự phát triển kinh tế nói chung.

Tại Anh, trong một số trường hợp, ngành đường sắt cũng chuyển từ dùng than sang dùng dầu nhằm giảm lượng khói thải ra ở các khu vực đô thị hoặc vì những lý do an toàn đặc biệt, như khi chở các thành viên của gia đình hoàng tộc. Tuy nhiên, nhìn chung, than vẫn tiếp tục chiếm thị phần lớn vì trên thực tế, than là cơ sở cho ngành công nghiệp nặng ở Bắc Mỹ và châu Âu phát triển trên quy mô rộng. Than cũng là nhiên liệu cho các đội tàu thương mại và hải quân trên thế giới. Và tầm nhìn của Samuel vấp phải sự phản đối mạnh mẽ ngay trên phân đoạn thị trường mà ông quan tâm nhất – Hải quân Hoàng gia Anh. Ông đã bỏ ra hơn một thập kỷ tìm cách mở cánh cửa vào thị trường này, mà không thu được kết quả nào.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 8)

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 8)

Kính thưa quý vị, trong chuyên mục Podcast báo Công Thương ngày hôm nay, chúng ta lại tiếp tục đến với kỳ 8 của cuốn sách Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực của tác giả Hà nam giới thiệu, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

CHƯƠNG 7: "NHỮNG TRÒ GIẢI TRÍ" Ở BA TƯ

Cuối năm 1900, Antoine Kitabgi, một tướng quân Ba Tư bảnh bao, đã tới Paris. Có lúc ông được cho là người gốc Armenia, lại có lúc được cho là người gốc Georgia, Kitabgi từng giữ nhiều vị trí trong Chính phủ Ba Tư, kể cả chức Tổng giám đốc Cục Hải quan. Một nhà ngoại giao Anh nói, Kitabgi "là người tinh thông các vấn đề phương Tây, có thể vạch ra một thỏa thuận hoặc đề xướng những hoạt động thương mại". Đó là những kỹ năng thích hợp cho nhiệm vụ của ông. Lý do bề ngoài của chuyến viếng thăm là lễ khai mạc Triển lãm Ba Tư ở Paris, nhưng mục đích chính của Kitabgi lại là tìm kiếm một nhà đầu tư ở châu Âu muốn thuê mỏ dầu ở Ba Tư. Kitabgi không chỉ phục vụ lợi ích của riêng mình – chắc chắn ông sẽ được đền đáp thỏa đáng – mà còn phục vụ cho lợi ích của Chính phủ Ba Tư. Trong những vấn đề rất hiển nhiên mà Chính phủ Ba Tư đang phải đối mặt, việc thiếu tiền trầm trọng.

Theo Thủ tướng Ba Tư thì nguyên nhân là do "tính hoang phí của Shah". Kết quả của những nỗ lực của tướng Kitabgi sẽ chứng minh đây là một vụ giao dịch có quy mô lớn nhất trong lịch sử. Mặc dù số phận của thỏa thuận này như ngàn cân treo sợi tóc trong vòng nhiều năm, nhưng nó sẽ mở ra kỷ nguyên dầu lửa ở Trung Đông và cuối cùng, đẩy khu vực này tới vị trí trung tâm của những bất đồng quốc tế về chính trị và kinh tế. Còn bản thân Ba Tư – hay Iran, như quốc gia này được biết tới từ năm 1935 trở đi – sẽ nổi lên với vị thế cao trên trường quốc tế, một vị thế chưa từng có kể từ thời kỳ đế quốc Ba Tư và Parthi cổ đại.

undefined
Mỏ dầu ở Ba Tư

"Một nhà tư bản hạng nhất"

Ở Paris, Kitabgi tìm sự giúp đỡ của một nhà ngoại giao Anh đã về hưu. Sau khi cân nhắc, ông ta báo cáo Kitabgi: "Tôi đã nói chuyện với một nhà tư bản hạng nhất về vấn đề dầu lửa. Ông ấy tuyên bố sẵn sàng xem xét chuyện này". Nhà tư bản đó là William Knox D’Arcy. Sinh năm 1849 ở Devon, nước Anh, D’Arcy nhập cư vào Australia và tại đây, ông trở thành luật sư tại một thị trấn nhỏ và nảy sinh niềm đam mê đặc biệt với môn đua ngựa. Với bản tính sẵn sàng nắm bắt cơ hội, D’Arcy đã tổ chức một nghiệp đoàn để đưa một mỏ vàng cũ trở lại hoạt động. Mỏ này hóa ra vẫn còn rất nhiều vàng, và sau đó, ông quay về Anh sống cuộc đời cực kỳ giàu có. Sau khi người vợ đầu tiên qua đời, ông cưới Nina Boucicault, một nữ diễn viên nổi tiếng, người có những thú tiêu khiển rất xa xỉ. Thậm chí, Enrico Caruso đã tới hát trong những bữa tiệc tối của đôi vợ chồng này. Ngoài ngôi nhà ở London, D’Arcy sở hữu hai điền trang ở ngoại ô và một trong hai lô riêng ở trường đua Epson – lô kia là của Hoàng gia Anh. Ông là một nhà đầu tư, một nhà đầu cơ, một nhà tổ chức các nghiệp đoàn, nhưng không phải là một nhà quản lý, và ông đang tìm kiếm một cơ hội đầu tư mới. Triển vọng về dầu lửa ở Ba Tư đã hấp dẫn D’Arcy. Lại một lần nữa, ông sẵn sàng chộp lấy cơ hội, và với việc nắm bắt cơ hội này, ông sẽ trở thành người sáng lập ngành công nghiệp dầu lửa ở Trung Đông. Những khu vực có dầu ở Ba Tư đã được biết đến trong nhiều thế kỷ.

Ở đất nước này, dầu đã được sử dụng cho nhiều mục đích như chít thuyền và gắn các viên gạch. Năm 1872, rồi năm 1889, Nam tước Julius de Reuter, người sáng lập hãng tin Reuters, đã thuê được hai mỏ dầu ở Ba Tư. Tuy nhiên, việc làm đó đã gây ra sự chống đối lớn ở Ba Tư và Nga. Thêm vào đó, những nỗ lực tìm kiếm dầu cũng không thành công và gây ra nhiều lãng phí. Cuối cùng, hợp đồng thuê hai mỏ dầu này đã bị huỷ bỏ. Trong thập niên 1890, một nhà địa chất người Pháp bắt đầu xuất bản các báo cáo dựa trên nghiên cứu mở rộng của ông ở Ba Tư, cho thấy tiềm năng lớn về dầu lửa ở đây. Công trình của ông được nhiều người biết tới, trong đó có tướng Kitabgi, người rất muốn gài bẫy D’Arcy và hứa hẹn với nhà triệu phú này về một "nguồn của cải vô biên". Làm sao người ta có thể không quan tâm? Nhưng trước tiên cần phải giành được quyền thuê đất đã.

Ngày 25 tháng 3 năm 1901, đại diện của D’Arcy rời Paris, đi qua Baku và tới Tehran vào ngày 16 tháng 4. Các cuộc đàm phán tại thủ đô của Ba Tư diễn ra chậm chạp và liên tục đứt quãng nên lúc rảnh rỗi, đại diện của D’Arcy lại đi tìm mua những tấm thảm và hàng thêu. Nhà trung gian lâu năm Antoine Kitabgi thì bận rộn hơn. Theo công sứ Anh tại Ba Tư, ngài Arthur Hardinge, thì Kitabgi "bằng một cung cách rất chu đáo, tìm kiếm sự ủng hộ của tất cả các bộ trưởng và cận thần quan trọng của Shah. Thậm chí, Kitabgi còn không quên cả tay người hầu vẫn mang tẩu thuốc và cà phê sáng cho Shah".

Anh chống lại Nga

Trước đây, Ba Tư là đế quốc cổ đại dưới sự trị vì của Cyrus Đại đế và Darius I. Cho tới thế kỷ V, quốc gia này trải dài từ Ấn Độ tới khu vực ngày nay là Hy Lạp và Libya. Sau đó, đế quốc Parthia nổi lên trên khu vực Iran ngày nay và trở thành đối thủ đáng gờm của đế quốc La Mã. Ba Tư là một ngã tư lớn cho các hoạt động mậu dịch và các cuộc chinh phạt giữa châu Á và phương Tây. Từng làn sóng nối tiếp nhau của những đoàn quân và nhiều dân tộc đã đi qua nơi này, và từng định cư tại đây. Alexander Đại đế như cơn lốc quét tới từ phương Tây, Thành Cát Tư Hãn và quân Mông Cổ ào tới từ phương Đông.

Cuối thế kỷ XVIII, một vương triều tham lam mang tên Qajar đã giành được quyền kiểm soát một đất nước đã bị chia nhỏ thành các công quốc của những viên thủ lĩnh giành thắng lợi trong chiến tranh và những liên minh bộ tộc. Việc cai trị của các Shah Qajar trong một thế kỷ rưỡi diễn ra không dễ dàng. Vào thế kỷ XIX, một đất nước vốn quen với việc xâm lược các dân tộc khác nhận ra mình đang là đối tượng của một áp lực mới từ bên ngoài – cuộc cạnh tranh thương mại và ngoại giao giữa Nga và Anh để giành quyền thống trị Ba Tư. Điều này tất yếu khiến các Shah Qajar bận tâm, vì họ đang tìm cách làm cho hai cường quốc này chống lại nhau. Sự thù địch giữa Anh và Nga đã biến Ba Tư thành một vấn đề lớn trong chính sách đối ngoại của Anh. Ngài Curzon, toàn quyền Ấn Độ, coi Ba Tư là một trong những "mảnh ghép của một bàn cờ, nơi người ta đang chơi một ván cờ để giành quyền cai trị thế giới".

Đầu thập niên 1860, Nga bắt đầu nỗ lực mở rộng và thôn tính khu vực Trung Á. Quốc gia này còn vươn tầm ngắm qua Trung Á, tính tới chuyện kiểm soát các nước láng giềng và thôn tính được một cảng nước ấm. Đối với Anh, sự bành trướng của Nga là mối đe dọa trực tiếp đến Ấn Độ và những tuyến đường dẫn tới đây. Năm 1871, Bộ Ngoại giao Anh tuyên bố, bất kỳ nguồn lực nào giúp tăng cường sức mạnh của Ba Tư chống lại bước tiến của Nga cũng "có vai trò quan trọng đối với việc bảo vệ Ấn Độ". Nga đang trên đà mở rộng khắp khu vực. Năm 1885, Nga mở cuộc tấn công vào nước láng giềng Afghanistan và suýt làm nổ ra một cuộc chiến tranh giữa Nga và Anh. Cuối thế kỷ XIX, Nga lại tiếp tục gây áp lực với Ba Tư. Trong bối cảnh đó, Anh tìm cách duy trì nguyên trạng Ba Tư để làm một vùng đệm giữa Nga và Ấn Độ. Hai cường quốc đã tranh giành ảnh hưởng đối với Ba Tư thông qua những hợp đồng thuê đất, những khoản vay và các công cụ ngoại giao kinh tế khác. Tuy nhiên, khi bước sang thế kỷ mới, địa vị của Anh ở đây trở nên bấp bênh, vì Ba Tư dường như đã nằm trong vòng kiểm soát của Nga.

Trong khi nền kinh tế của Ba Tư đã hòa nhập đáng kể vào nền kinh tế Nga, Nga còn tìm cách xây dựng một căn cứ hải quân ở vịnh Ba Tư. Theo lời của vị công sứ người Anh Hardinge, Shah Muzaffar al-Din của Ba Tư "chỉ là một đứa trẻ lớn tuổi" và "bản thân chế độ quân chủ của Ba Tư đã già cỗi và bị quản lý yếu kém trong thời gian dài. Chế độ này có nguy cơ bị lật đổ ngay lập tức khi bất kỳ một cường quốc bên ngoài nào đưa ra mức giá cao nhất hoặc đe dọa lớn tiếng nhất đối với những kẻ cai trị đã thoái hóa và không còn khả năng tự vệ". Hardinge lo sợ rằng, cường quốc ấy rất có khả năng là nước Nga, vì "Shah và các bộ trưởng của ông ta đang ở trong tình trạng phụ thuộc hoàn toàn vào Nga, do sự phung phí liều lĩnh và hành động thiếu suy nghĩ của họ". Người Nga không quan tâm nhiều đến khía cạnh kinh tế của mối quan hệ này. Một quan chức Nga nói: "Chúng tôi được lợi gì khi buôn bán với bảy hay tám triệu kẻ nhếch nhác và lười biếng?". Thực tế, điều mà người Nga muốn là áp đặt quyền chi phối chính trị lên Ba Tư và gạt những cường quốc khác ra khỏi nước này.

Theo Hardinge, mục tiêu "quan trọng nhất" trong chính sách của Anh là chống lại một cuộc xâm nhập "đáng ghê tởm" vào Ba Tư. Đây chính là điều mà D’Arcy và kế hoạch kinh doanh dầu lửa của ông có thể hỗ trợ. Một hợp đồng thuê mỏ dầu cho người Anh sẽ góp phần lấy lại thế cân bằng với Nga. Vì thế, Anh đã ủng hộ vụ làm ăn của D’Arcy. Khi phát hiện ra cuộc đàm phán thuê mỏ dầu, viên công sứ Nga nổi giận, tìm cách cản trở và đã thành công trong việc kéo dài quá trình đàm phán. Tuy nhiên, đại diện của D’Arcy đã đặt thêm 5.000 bảng nữa lên bàn đàm phán, vì theo những gì mà người này báo cáo với D’Arcy, "Shah muốn có ngay một ít tiền và đòi có tiền thì mới ký hợp đồng". Số tiền đưa thêm đó đã có tác dụng, và ngày 28 tháng 5 năm 1901, Shah Muzaffar al-Din đã ký vào bản hợp đồng. Hợp đồng này đem lại cho nhà vua 20.000 bảng tiền mặt, một số cổ phiếu trị giá 20.000 bảng, và 16% của "lợi nhuận ròng hàng năm". Đổi lại, D’Arcy có được quyền khai thác mỏ dầu trong vòng 60 năm, trên khắp 3/4 diện tích của Ba Tư. Từ đầu, D’Arcy đã có chủ ý loại ra khỏi hợp đồng thuê mỏ mà ông đề xuất năm tỉnh ở phía bắc của Ba Tư, những nơi gần nước Nga nhất, để "không làm phật ý người Nga". Tuy nhiên, sự đối địch giữa Anh và Nga khó có thể chấm dứt. Lúc này, Nga đang tìm cách xây dựng một đường ống dẫn dầu từ Baku tới vịnh Ba Tư, không chỉ để tăng cường xuất khẩu dầu mỏ vào thị trường Ấn Độ và châu Á, mà quan trọng hơn, để mở rộng ảnh hưởng chiến lược của Nga ở Ba Tư, trên khắp Vùng Vịnh và tới những khu vực bờ biển của Ấn Độ Dương. Người Anh kịch liệt phản đối dự án này.

Công sứ Anh tại Tehran, Hardinge cảnh báo rằng, việc cho phép xây dựng đường ống "lố bịch" này, thậm chí cả khi đường ống đó không bao giờ được xây dựng, sẽ "là cái cớ để các nhà khảo sát, kỹ sư và biệt đội bảo vệ của bọn Cô-dắc lan tràn khắp khu vực phía nam của Ba Tư, chuẩn bị cho sự chiếm đóng quân sự trá hình". Sự phản đối của Anh đã thành công, tuyến đường ống đó đã không được xây dựng. Đại diện của D’Arcy ở Tehran cảm thấy hồ hởi về thỏa thuận đã đạt được. Chương trình này sẽ không chỉ đem lại lợi ích cho D’Arcy mà còn "có ảnh hưởng rộng rãi, cả về mặt thương mại và chính trị cho nước Anh và không thể không tăng cường mạnh mẽ ảnh hưởng của nước Anh ở Ba Tư". Mặc dù từ chối gánh lấy bất kỳ trách nhiệm trực tiếp nào, Bộ Ngoại giao Anh cũng sẵn sàng hỗ trợ cho những nỗ lực của D’Arcy. Tuy nhiên, người có mặt trực tiếp ở Ba Tư là Hardinge lại tỏ ra hoài nghi. Ông biết rõ về Ba Tư – hệ thống chính trị, con người, những khó khăn lớn về địa lý và hậu cần, cũng như thực tế chẳng có gì hứa hẹn của những hợp đồng khai thác dầu lửa gần đây ở nước này. Ông cảnh báo: "Cho dù có dầu ở Ba Tư hay không, trong những năm qua, đã có quá nhiều kế hoạch triển vọng tái tạo thương mại và chính trị ở đây bị đổ vỡ. Việc dự báo tương lai của dự án mới nhất này có thể là điều quá vội vàng".

Theo lời một nhà sử học, kế hoạch của D’Arcy là "cuộc phiêu lưu trải rộng trên một vùng đất xa xôi và khó lường". Vậy điều gì đã lôi kéo D’Arcy vào một dự án kinh doanh mạo hiểm đến như vậy? Tất nhiên, câu trả lời ở đây là sức hấp dẫn không thể cưỡng lại được của sự giàu có khôn xuể và cơ hội trở thành một Rockefeller mới. Ngoài ra, trước đó, D’Arcy cũng từng mạo hiểm với mỏ vàng ở Australia và thành công rực rỡ. Tuy nhiên, nếu D’Arcy có thể dự đoán chính xác điều gì đang đợi mình ở phía trước, hẳn là ông đã dừng vụ làm ăn mạo hiểm này. Đây là một canh bạc lớn, lớn hơn rất nhiều so với dự án mỏ vàng ở Australia của D’Arcy, với nhiều người chơi hơn so với những gì ông dự tính. Đồng thời, nó cũng có mức độ phức tạp chính trị và xã hội hoàn toàn không hề tồn tại ở Australia. Tóm lại, đây không phải là một vụ làm ăn bình thường. Thậm chí, cả những tính toán chi phí cũng được nói giảm đi rất nhiều. Ban đầu, D’Arcy được cố vấn rằng sẽ phải mất 10.000 bảng để khoan hai giếng dầu nhưng thực tế là trong vòng bốn năm, ông phải bỏ ra tới hơn 200.000 bảng.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 6)

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 6)

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 6), kính thưa quý vị, trong chuyên mục Podcast báo Công Thương ngày hôm nay, chúng ta lại tiếp tục đến với kỳ 6 của cuốn sách Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực của tác giả Hà Nam (giới thiệu), kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, quá trình công nghiệp hóa đã biến một nền kinh tế phi tập trung và cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp công nghiệp nhỏ thành một nền kinh tế bị những tập đoàn công nghiệp hợp nhất khổng lồ được gọi là tờ-rớt thống trị.

CHƯƠNG 5: SÁT THỦ GIẾT RỒNG

"Ngôi nhà cổ" đang bị vây hãm. Standard Oil không thể đánh bại các đối thủ thương mại của nó tại Mỹ cũng như trên thế giới. Ngoài ra, một cuộc chiến chính trị và pháp lý đang diễn ra trên khắp nước Mỹ nhằm chống lại Standard Oil và các hành vi kinh doanh tàn nhẫn của công ty này. Đây không phải là một thử thách mới, Rockefeller và các đối tác của ông đã bị chỉ trích và phỉ báng ngay từ những ngày đầu xây dựng tờ-rớt dầu lửa Standard.

Các lãnh đạo công ty không bao giờ thật sự hiểu được sự chỉ trích đó. Họ nghĩ rằng, đó là chính sách mị dân rẻ tiền, sự ghen tị dốt nát và một cách nài xin đặc biệt. Họ tin chắc rằng, trong cuộc theo đuổi không ngừng nghỉ những lợi ích của bản thân và sự giàu có, Standard Oil không chỉ ngăn chặn được tai họa của "tình trạng cạnh tranh không kiểm soát", mà công ty này có lẽ còn là, theo lời của chính Rockefeller, "những người dựng xây" vĩ đại nhất trong lịch sử nước Mỹ. Tuy nhiên, đó không phải là cách nhìn nhận của phần đông dư luận.

Những người phê phán Standard chỉ nhìn thấy một doanh nghiệp hùng mạnh, xảo quyệt, thô bạo, kiên cố, xâm nhập vào mọi ngóc ngách, và rất bí hiểm. Công ty này không chịu trách nhiệm trước một ai, trừ một vài vị giám đốc ngạo mạn, và dùng sự tàn bạo để cố gắng tiêu diệt những ai cản đường nó. Quan điểm này là một phần bối cảnh của thời kỳ đó. Sự lớn mạnh của Standard Oil không diễn ra tách biệt với những gì xung quanh. Đó là sản phẩm của quá trình công nghiệp hóa diễn ra nhanh chóng của nền kinh tế Mỹ trong vài thập niên cuối thế kỷ XIX.

Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, quá trình công nghiệp hóa đã biến một nền kinh tế phi tập trung và cạnh tranh với nhiều doanh nghiệp công nghiệp nhỏ thành một nền kinh tế bị những tập đoàn công nghiệp hợp nhất khổng lồ được gọi là tờ-rớt thống trị. Mỗi tờ-rớt ngồi chễm chệ trên một ngành công nghiệp và nhiều tờ-rớt có các nhà đầu tư và giám đốc đan xen lẫn nhau. Sự thay đổi nhanh chóng này là một hồi chuông cảnh báo mạnh mẽ đối với nhiều người Mỹ.

Khi thế kỷ XIX kết thúc và thế kỷ XX mở ra, họ trông chờ chính phủ lập lại sự cạnh tranh, kiểm soát những hành vi bất lương và chế ngự sức mạnh kinh tế cũng như chính trị của các tờ-rớt, những con rồng to lớn và đáng sợ đang gầm rú quá tự do trên khắp đất nước. Dữ tợn và đáng sợ nhất trong số những con rồng này chính là Standard Oil.

undefined
Rockefeller

Công ty mẹ

Những cuộc tấn công pháp lý chống Standard bắt đầu được nối lại từ các bang, với các vụ kiện chống độc quyền do bang Ohio và Texas khởi tố. Tại Kansas, thống đốc bang đưa ra kế hoạch xây dựng một nhà máy lọc dầu do bang sở hữu với công nhân làm việc tại đó là các phạm nhân đang cải tạo và công ty này sẽ cạnh tranh với Standard Oil. Có ít nhất bảy bang khác, cùng với vùng lãnh thổ Oklahoma, tiến hành các hành động pháp lý chống lại Standard ở dạng này hay dạng khác. Tuy nhiên, Standard chưa hề tỏ ra e ngại trước sự chống đối toàn diện của dân chúng đối với các hành vi kinh doanh của mình.

Năm 1888, trong một lá thư gửi cho Rockefeller, một lãnh đạo của Standard Oil viết: "Tôi cho rằng, cơn sốt chống tờ‑rớt này là sự loạn trí. Chúng ta nên nghiêm túc đối mặt với điều này và tránh mọi câu hỏi bằng những câu trả lời né tránh sự thật trong khi vẫn hết sức chân thực". Standard tiếp tục giữ bí mật tất cả kế hoạch của mình. Khi đứng trước tòa trong một vụ kiện mà bang Ohio là nguyên đơn, Rockefeller kín miệng đến nỗi, một tờ báo của New York đã giật tít: "John D. Rockefeller là một con hến". Để huy động mọi nguồn lực cần thiết cho cuộc chiến đang đến gần, Standard thuê một luật sư giỏi nhất và đắt giá nhất. Công ty này cũng tìm cách gây ảnh hưởng chính trị, đóng góp đúng lúc cho các hoạt động chính trị.

Khi đóng góp cho Đảng cộng hòa ở bang Ohio, Rockefeller viết: "Những người bạn của chúng tôi thật sự cảm thấy chúng tôi chưa nhận được sự đối xử bình đẳng từ Đảng Cộng hòa. Nhưng chúng tôi kỳ vọng những điều tốt đẹp hơn trong tương lai". Tuy nhiên, Standard Oil không dừng lại ở những khoản đóng góp như thế. Công ty ký hợp đồng thuê nghị sĩ Đảng Cộng hòa của bang Ohio làm luật sư cho mình khi cần, với mức phí riêng trong năm 1900 là 44.500 đô-la. Công ty còn cho một nghị sĩ rất có ảnh hưởng của Texas, được coi là "thủ lĩnh dân chủ ưu tú nhất tại Mỹ" vay tiền để thanh toán cho vụ mua lại một điền trang rộng 6.000 acre ở gần Dallas.

Ngoài ra, công ty quảng cáo mà Standard Oil thuê, trong quá trình mua lại vị trí quảng cáo trên các tờ báo, đã cho đăng những bài báo có nội dung liên quan đến Standard Oil. "Ngôi nhà cổ" cũng thành lập hoặc thôn tính "những con hổ mù", tức những công ty nhìn từ ngoài vào thì đúng là những nhà phân phối độc lập, nhưng sự thật thì không. Chẳng hạn, năm 1901, một công ty kinh doanh dầu lửa có tên Republic Oil được thành lập ở bang Missouri. Công ty này giương cao những lời quảng cáo như: "Không tờ-rớt", "Không độc quyền" và "Hoàn toàn độc lập". Tuy vậy, nó vẫn bí mật gửi báo cáo lên số 75 đường New Street ở New York, một cửa sau của số 26 đường Broadway.

Mặc dù một số bang đã giành được những chiến thắng tạm thời trước Standard, nhưng rốt cục không bang nào thành công trong các cuộc tấn công Standard. Ví dụ, sau khi các công ty con của Standard Oil bị trục xuất khỏi Texas và tài sản của họ bị chính phủ quản lý, tòa án đã tổ chức một buổi bán lại các tài sản này ở khách sạn Driskill tại Austin. Nhưng thực tế, họ bán lại những tài sản này cho người của Standard Oil. Mặc dù vậy, các cuộc tấn công pháp lý này cũng buộc Standard Oil phải có những thay đổi nhất định trong tổ chức của công ty. Năm 1892, theo quyết định của tòa án ở Ohio, tờ-rớt này bị giải thể và cổ phiếu của nó được chuyển giao cho 20 công ty. Tuy nhiên, quyền kiểm soát vẫn nằm trong tay những chủ sở hữu ban đầu. Các công ty này tập hợp lại với nhau thành "Những nhóm tư bản Standard Oil".

Trong tổ chức mới này, Ban Điều hành tại 26 Broadway được chuyển thành một cuộc gặp gỡ thân mật giữa các chủ tịch của các công ty thành viên khác nhau tạo thành "Những nhóm tư bản Standard Oil". Thư từ không còn được đề địa chỉ gửi tới Ban Điều hành nữa, mà chỉ là "các quý ngài tầng trên". Tuy nhiên, "các quý ông này" không lấy làm vui mừng với việc tổ chức lại tờ-rớt của họ thành "Những nhóm tư bản Standard Oil". Việc tiếp tục bảo vệ là cần thiết trong bối cảnh các áp lực vẫn tiếp diễn và để tạo cho công ty nền móng pháp lý vững chắc hơn. Họ tìm thấy giải pháp cho những vấn đề của mình ở New Jersey. Pháp luật của bang này đã được sửa đổi, cho phép việc thành lập các công ty mẹ –các công ty có thể sở hữu cổ phần ở các doanh nghiệp khác. Đây là một thay đổi có tính chất quyết định trong luật doanh nghiệp truyền thống ở nước Mỹ. New Jersey cũng nỗ lực trong việc tạo ra một môi trường kinh doanh hấp dẫn hơn cho hình thức hợp nhất mới này.

Do đó, năm 1899, ban lãnh đạo của "Những nhóm tư bản Standard Oil" đã thành lập Standard Oil của New Jersey, một công ty mẹ cho toàn bộ hoạt động của họ. Giá trị vốn hóa của công ty này tăng từ 10 triệu đô-la lên 110 triệu đô-la và công ty nắm giữ cổ phần trong 41 công ty khác. Những công ty con này lại nắm quyền kiểm soát những công ty khác nữa, và những công ty bên dưới này còn tiếp tục quản lý những công ty nhỏ hơn. Trong suốt thời gian này, tại Standard Oil còn diễn ra một thay đổi lớn khác. Sau khi tích luỹ được một khối tài sản khổng lồ, John Rockefeller cảm thấy mệt mỏi và bắt đầu lên kế hoạch nghỉ hưu. Mặc dù Rockefeller mới 55 tuổi song những căng thẳng công việc liên tục và từ những cuộc tấn công nhằm vào ông và Standard Oil đã bắt đầu ảnh hưởng tới sức khỏe của ông. Từ sau năm 1890, Rockefeller thường phàn nàn về hệ tiêu hóa của mình. Ông nói rằng mình đang bị hành hạ và luôn đặt một khẩu súng lục cạnh giường khi đi ngủ.

Năm 1893, Rockefeller mắc chứng rụng tóc, một căn bệnh liên quan đến sự căng thẳng tâm lý, và phải đối phó với nó bằng mũ chỏm hay tóc giả. Kế hoạch nghỉ hưu của ông tạm thời bị trì hoãn do một loạt các cuộc khủng hoảng – thời kỳ Suy thoái nghiêm trọng của kinh tế Mỹ năm 1893 và tiếp đó là cuộc đại khủng hoảng, rồi cuộc cạnh tranh ngày càng quyết liệt ở cả thị trường trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên, vai trò của Rockefeller cũng bắt đầu giảm dần và cuối cùng, năm 1897, khi chưa tới 60 tuổi, ông nghỉ hưu, chuyển giao quyền lãnh đạo John D. Archbold.

Người kế nhiệm: Nhân vật hăng hái trong ngành dầu lửa

Không ai nghi ngờ việc John Archbold kế nhiệm Rockefeller. Hơn bất kỳ nhà lãnh đạo cấp cao nào của Standard, ông là chuyên gia trong mọi lĩnh vực của ngành công nghiệp dầu lửa. Ông là một trong những nhân vật quyền lực nhất trong ngành dầu lửa tại Mỹ trong suốt hai thập kỷ trước đó. Và trong hai thập kỷ tiếp theo, có lẽ ông chính là nhân vật quyền lực nhất. Với dáng người thấp và vẻ bề ngoài trẻ hơn tuổi, Archbold là một người đầy ý chí và không biết đến mỏi mệt. Ông luôn hăng hái "đi tới cùng" và cống hiến hết mình cho những yêu cầu và tính đúng đắn của sự nghiệp mà ông theo đuổi.

Trong thời gian diễn ra chiến dịch bầu cử tổng thống năm 1860, khi còn là một cậu bé, ông đã đi bán những tấm huy hiệu in hình các ứng cử viên. Mặc dù anh trai ông bán tại một khu vực thuận lợi hơn, nhưng Archbold vẫn bán được nhiều huy hiệu hơn. Năm 15 tuổi, Archbold một mình lên chuyến tàu từ Salem, bang Ohio tìm kiếm vận may trong lĩnh vực dầu lửa ở Titusville. Ban đầu, ông làm thư ký cho một công ty vận tải biển với mức lương còm cõi đến nỗi ông phải ngủ trên một chiếc giường kê dưới quầy thu ngân ở văn phòng. Sau đó, Archbold trở thành nhà môi giới dầu lửa năng động và bị cuốn vào "sự hăng hái về dầu" trong suốt cuộc đời. Lòng nhiệt tình đó vô cùng cần thiết trong bối cảnh lộn xộn của Vùng đất dầu.

Một đối tác nhớ lại người môi giới dầu lửa trẻ tuổi này: "Khi đó, công việc hàng ngày của ông ấy thật vất vả. Trên những đường phố chính của Titusville luôn bao phủ một lớp bùn lẫn dầu dày khoảng 30 cm. Xung quanh những giếng dầu dọc theo Dòng sông Dầu, tình trạng cũng tương tự, thậm chí có lúc bùn còn lên đến ngang đùi. Nhưng John Archbold chẳng để ý đến điều đó. Ông vẫn cứ lội qua những con đường lầy lội đó, hát ngân nga khi sắp mua được dầu hoặc đang dự tính đến việc đó". Ngoài công việc, Archbold không có thú vui nào khác. Ông học cách sử dụng khiếu hài hước để giải tỏa những tình huống căng thẳng và điều này trở thành vũ khí lợi hại nhất của ông trong những cuộc tranh cãi và xung đột. Rất lâu sau, khi được hỏi có phải Standard Oil chỉ quan tâm đến những lợi ích của riêng mình hay không, ông trả lời khô khan: "Chúng tôi không phải lúc nào cũng là nhà từ thiện".

Ông cũng học được cách nhìn nhận các sự kiện, dù phức tạp đến đâu, theo chiều hướng phát triển. Ông biết cách khiến mình trở nên hữu ích với người khác – đặc biệt là John D. Rockefeller – và thể hiện cho họ thấy điều đó. Rockefeller sớm để mắt đến Archbold. Năm 1871, trong khi làm thủ tục đăng ký tại một khách sạn ở Titusville, Rockefeller đã nhìn thấy chữ ký của một nhà môi giới và lọc hóa dầu trẻ tuổi, với nội dung "John D. Archbold, 4 đô-la/thùng". Rất ấn tượng trước cách quảng cáo tự tin như vậy, vào một thời điểm mà người ta không thể mua dầu với mức giá gần con số này, Rockefeller đã ghi lại thông tin đặc biệt này. Là một nhà hoạt động, Archbold trở thành thư ký Sàn giao dịch dầu lửa Titusville.

Trong vụ Công ty South Improvement và Chiến tranh dầu lửa năm 1872, khi Rockefeller và các công ty đường ray tìm cách kiểm soát độc quyền sản lượng dầu lửa, ông nổi lên như một trong những nhà lãnh đạo của Vùng đất dầu, và tố cáo Rockefeller bằng những lời lẽ gay gắt nhất. Tuy nhiên, Rockefeller đã nhận ra một người nắm giữ những nguyên tắc cơ bản của Vùng đất dầu, một người cống hiến hết mình cho ngành công nghiệp dầu lửa, người vừa có thể hung hăng, tàn nhẫn, lại vừa có thể linh hoạt và có khả năng thích nghi. Điều này đã được chứng minh chắc chắn khi vào năm 1875, Rockefeller mời Archbold làm việc cho Standard và ông nhanh chóng nhận lời.

Nhiệm vụ đầu tiên của Archbold là bí mật mua lại tất cả các nhà máy lọc dầu dọc theo Dòng sông dầu. Ông nhận nhiệm vụ này với quyết tâm cao nhất. Chỉ trong vài tháng, ông đã mua hoặc thuê lại 50 nhà máy lọc dầu, và làm việc cật lực đến nỗi sức khỏe suy sụp nghiêm trọng. Archbold nhanh chóng thăng tiến lên nấc thang lãnh đạo cao nhất của Standard Oil. Tuy nhiên, Archbold vẫn phải giải quyết một trở ngại lớn với Rockefeller, trở ngại mà ông gọi là "nhược điểm không may" của mình. Ông rất mê đồ uống có cồn, nhưng Rockefeller nhất quyết yêu cầu ông ký vào bản cam kết không uống rượu và phải nghiêm túc thực hiện cam kết đó. Archbold đã làm điều mà Rockefeller muốn. Khi 50 tuổi, ông đã là một nhân vật kỳ cựu có thâm niên hơn ba thập kỷ trong ngành dầu lửa hoạt động. Đem thế mạnh và kinh nghiệm của mình vào vị trí mới, Archbold là nhân vật số một tại Standard. Mặc dù vẫn giữ liên lạc với trụ sở 26 Broadway, nhưng kể từ khi nghỉ hưu, Rockefeller dành toàn bộ thời gian cho các điền trang, làm từ thiện, chơi golf và quản lý khối tài sản ngày càng lớn của mình.

Trong khoảng thời gian từ năm 1893 tới năm 1901, Standard Oil đã trả cổ tức trị giá hơn 250 triệu đô-la. Phần lớn số tiền này thuộc về sáu người và Rockefeller giữ 1/4. Viết về núi tiền mà Standard bỏ ra này, một tác giả chuyên về các vấn đề tài chính nhận định, công ty này giống như "một ngân hàng thật sự của người khổng lồ vĩ đại nhất – một ngân hàng trong một cơ sở công nghiệp, cung cấp tài chính cho cơ sở đó trong cuộc cạnh tranh với mọi đối thủ". Sau khi ngừng tham gia điều hành công ty, sức khỏe Rockefeller đã hồi phục.

Năm 1909, bác sĩ dự đoán ông sẽ thọ tới 100 tuổi vì ông đã thực hiện ba nguyên tắc đơn giản: "Thứ nhất, tránh mọi lo lắng. Thứ hai, thường xuyên tập thể dục ở ngoài trời. Thứ ba, rời bàn ăn khi còn hơi đói". Rockefeller vẫn theo kịp diễn biến tình hình ở Standard, nhưng ông không tham gia quản lý công ty. Archbold cũng không cho ông làm điều đó. Archbold thường tới thăm Rockefeller vào các buổi sáng thứ bảy để thảo luận về hoạt động của Standard Oil. Rockefeller vẫn giữ danh hiệu chủ tịch công ty và điều này dẫn tới những đánh giá sai lầm về vai trò của Rockefeller trong thời kỳ này. Theo chính sách tuyệt đối bí mật của Standard, việc Rockefeller nghỉ hưu hoàn toàn được giữ kín, và như thế, Rockefeller vẫn phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với bất kỳ việc gì công ty này làm.

Bởi vậy, ông vẫn là trung tâm của mọi sự chỉ trích, mọi lời xúc phạm và mọi cuộc công kích. Vậy tại sao ông vẫn giữ danh hiệu chủ tịch? Có thể các cộng sự của ông nghĩ rằng cái tên Rockefeller khiến người ta phải nể sợ, là cần thiết để duy trì sự thống nhất của đế chế Standard. Cũng có thể đó là kết quả của lòng kính trọng mà Rockefeller được hưởng nhờ cổ phần mà ông nắm giữ trong công ty? Vài năm sau, một trong số những giám đốc cao cấp của công ty là H. H. Rogers đã đưa ra một lý do tương đối khác: "Chúng tôi nói với Rockefeller rằng ông ấy phải giữ danh hiệu này. Các vụ kiện chống lại chúng tôi vẫn đang treo ở tòa án. Và chúng tôi bảo ông ấy rằng, nếu bất cứ ai trong chúng tôi phải ra tòa, ông ấy sẽ phải đi cùng!"

undefined

Gia đình Rockefeller

"Sự kiện nóng bỏng"

Cuối thế kỷ XIX, cuộc tấn công nhằm vào Standard Oil ngày càng mạnh mẽ. Một tinh thần cải cách mới và mạnh mẽ là thuyết tiến bộ đang phát triển tại nước Mỹ. Những mục tiêu chính của thuyết này là cải cách chính trị, bảo vệ người tiêu dùng, thực hiện công bằng xã hội, cải thiện điều kiện làm việc, và kiểm soát cũng như điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp lớn. Mục tiêu sau cùng này đã trở thành một vấn đề cấp bách trong bối cảnh làn sóng hợp nhất lớn quét qua khắp nước Mỹ, với số lượng các tờ-rớt tăng lên nhanh chóng. Tờ-rớt đầu tiên tại quốc gia này là Standard Oil được thành lập năm 1882. Tuy nhiên, phong trào hợp nhất thật sự tăng tốc vào thập niên 1890.

Theo thống kê có 82 tờ-rớt với tổng giá trị vốn hóa là 1,2 tỷ đô-la được thành lập trước năm 1898. Từ năm 1898 đến năm 1904, có thêm 234 tờ-rớt được thành lập, với tổng giá trị vốn hóa hơn 6 tỷ đô-la. Theo quan điểm của một số người, tờ-rớt, hay sự độc quyền, chính là thành tựu lớn nhất của chủ nghĩa tư bản. Đối với những người khác, đây là sự đồi bại của một hệ thống đang đe dọa không chỉ giai cấp công nhân và nông dân, mà còn đe dọa cả tầng lớp trung lưu và giới doanh nhân, những người lo sợ bị tước đi các quyền lợi kinh tế.

Năm 1899, việc chống tờ-rớt được mô tả là "trận chiến lớn về đạo đức, xã hội và chính trị mà toàn bộ giới công đoàn phải đối mặt". Các tờ-rớt là một trong những chủ đề quan trọng nhất trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1900. Không lâu sau khi đắc cử, Tổng thống William McKinley nói với thư ký của ông rằng: "Vấn đề tờ-rớt phải được giải quyết sớm và nghiêm túc". Henry Demarest Lloyd, một trong số những người đầu tiên tham gia giải quyết vấn đề này, đã công kích quyết liệt Standard Oil bằng một cuốn sách có tựa đề Wealth again common wealth (Thịnh vượng chống lại thịnh vượng chung) xuất bản năm 1894.

Sau ông, một nhóm các nhà báo can đảm bắt đầu điều tra và công bố những hành vi mờ ám trong xã hội. Họ được gọi là "những người cào bùn" và trở thành trung tâm của phong trào tiến bộ. Một nhà sử học nhận định: "Thành tựu quan trọng cơ bản của thuyết tiến bộ ở Mỹ là việc vạch trần cái xấu". Tờ tạp chí khởi động cho toàn bộ chiến dịch cào bùn này có tên là McClure’s. Đây là một trong những ấn phẩm định kỳ hàng đầu ở Mỹ có số lượng phát hành lên tới hàng trăm nghìn bản. Chủ bút của McClure’s, Samuel McCluelà một người có tính khí thất thường, cởi mở và giàu trí tưởng tượng. Ông tập hợp được một đội ngũ phóng viên, biên tập viên tài năng về New York, và họ rất hăng hái tìm kiếm một đề tài lớn.

Năm 1899, trong bức thư gửi cho một trong số những người này, McClue viết: "Nhân vật lớn chính là các tờ-rớt. Đó sẽ là sự kiện nóng bỏng. Và tờ tạp chí có những bài viết về các giai đoạn khác nhau của chủ đề mà độc giả muốn biết này chắc chắn sẽ có lượng phát hành lớn". Các biên tập viên của tạp chí này quyết định tập trung vào một tờ‑rớt cụ thể để phản ánh quá trình hợp nhất. Nhưng sẽ là tờ-rớt nào? Họ bàn tới tờ-rớt Đường cũng như tờ-rớt Thịt bò, nhưng rồi lại gạt cả hai tờ-rớt này sang một bên.

Sau đó, một phóng viên đề xuất việc phát hiện dầu ở bang California nhưng thư ký tòa soạn Ida Tarbell không đồng ý. Bà nói: "Chúng ta phải vạch ra một kế hoạch tấn công mới. Trong đó, không chỉ cho thấy rõ tầm ảnh hưởng của các doanh nghiệp và sự phát triển thương mại cũng như những thay đổi mà họ tạo ra trên nhiều vùng khác nhau của đất nước, mà còn cho thấy rõ những nguyên tắc lớn mà các nhà lãnh đạo công nghiệp áp dụng để hợp nhất và kiểm soát những doanh nghiệp này".

"Bà bạn" của Rockefeller

Tại thời điểm đó, Ida Minerva Tarbell đã trở thành nữ nhà báo lớn đầu tiên của Mỹ. Người phụ nữ cao hơn 1,8 mét này có vẻ ngoài trang nghiêm và lạnh lùng đầy uy lực. Sau khi tốt nghiệp trường cao đẳng Allegheny, bà tới Paris để viết tiểu sử của Roland, một nữ lãnh đạo của cuộc Cách mạng Pháp, người đã phải bước lên máy chém. Tarbell cống hiến tất cả cho sự nghiệp và không kết hôn, mặc dù về sau này, bà trở thành một người chủ trì các buổi lễ trong đời sống gia đình và phản đối việc phụ nữ đi bầu cử.

Đầu thế kỷ XX, ở tuổi 45, bà đã là một tác giả nổi tiếng với những cuốn tiểu sử rất thông dụng nhưng công phu về Napoleon và Lincoln. Phong cách và vẻ bề ngoài của Tarbell khiến bà trông có vẻ già trước tuổi. Một biên tập viên nữ của tờ McClue’s nhớ lại: "Một đặc điểm lớn của bà ấy là khiến mọi người cảm thấy khó gần. Đối với những người bình thường, có vẻ như bà ấy chẳng biết làm dáng chút nào". Sau khi McClue’s đã chắc chắn về chủ đề các tờ-rớt, Tarbell mới tính đến chuyện đảm trách nhiệm vụ điều tra của riêng bà. Mục tiêu của bà hiển nhiên là ông tổ của các tờ-rớt, John D. Rockefeller.

Được sự chấp thuận của ông chủ bút, bà bắt đầu một nghiên cứu mà rồi cuối cùng sẽ lật đổ Standard Oil. Cuộc đời luôn có những điều trớ trêu, và cuốn sách ra đời từ nghiên cứu của Tarbell sẽ là hành động báo thù cuối cùng của Vùng đất Dầu dành cho những kẻ chinh phục nơi này. Vì Ida Tarbell lớn lên trong những cộng đồng phát triển bùng nổ rồi lại vỡ tung của Vùng đất dầu. Cha của bà, Frank Tarbell, kinh doanh lĩnh vực sản xuất thùng chứa chỉ vài tháng sau khi Drake phát hiện ra dầu.

Trong thập niên 1880, ông làm ăn khá tốt và gây dựng được cơ ngơi tại thị trấn Pithole, nơi hoạt động khai thác dầu bùng nổ. Khi mỏ dầu đột ngột cạn và thị trấn nhỏ bé nhưng nhộn nhịp này tới hồi tiêu vong, ông bỏ 600 đô-la mua lại khách sạn hàng đầu trong thị trấn vừa mới được xây với giá 60.000 đô-la. Sau đó, ông phá khách sạn này và chất lên xe ngựa những cửa sổ kiểu Pháp, những cánh cửa đẹp, những bộ phận bằng gỗ và rầm thép, chở tới Titusville cách đó 10 dặm để xây một ngôi nhà mới xinh xắn cho gia đình.

undefined

Ida Minerva Tarbell

Thời thơ ấu của Ida Tarbell trôi qua trong ngôi nhà đó. (Sau này, bà đã nghĩ tới việc viết một câu chuyện về Pithole – "không có gì kịch tính bằng lịch sử dầu lửa của Pithole", bà nói.) Năm 1872, Frank Tarbell liên minh với các công ty sản xuất dầu lửa độc lập ở Vùng đất dầu chống lại South Improvement. Sau đó, cũng giống như nhiều người khác vùng đất này, công việc làm ăn của ông bị sự phát triển của Standard Oil chèn ép. Sau đó, anh trai của Ida Tarbell là William trở thành một trong những người đứng đầu Công ty Pure Oil và thành lập bộ phận phát triển thị trường tại Đức. Từ người cha và anh trai, Tarbell đã hiểu được tính bấp bênh của hoạt động kinh doanh dầu lửa, một công việc mà như William nói cũng giống như "đánh bạc".

Năm 1896, ông viết: "Tôi thường ước mình được làm trong một công ty khác, và nếu tôi làm cho công ty đó trở nên giàu có, tôi sẽ giữ vững sự giàu có đó". Tarbell vẫn nhớ những gian nguy và khó khăn tài chính mà cha bà phải trải qua – ngôi nhà bị đem cầm cố, cảm giác về sự thất bại, cảnh đơn thương độc mã rõ ràng trong cuộc chiến chống lại Con bạch tuộc, nỗi cay đắng và sự chia rẽ giữa những người thỏa thuận với Standard Oil và những ai không chịu làm như vậy. "Đừng làm việc đó, Ida", người cha già của Tarbell khẩn khoản nói với con gái khi biết bà đang điều tra về Standard Oil cho McClue’s. "Họ sẽ hủy diệt tờ báo đấy".

Một buổi tối, trong bữa tiệc do Alexander Graham Bell tổ chức ở Washington, vị phó chủ tịch của một ngân hàng liên kết với Rockefeller đưa Tarbell đi cùng. Có vẻ như ông này đang lịch sự đe dọa về chính điều mà cha Tarbell cảnh báo trước đó khi đưa ra câu hỏi về tình hình tài chính của tờ McClue’s. Tarbell sẽ không dừng lại. Là một nhà nghiên cứu không biết mệt mỏi và luôn suy nghĩ thấu đáo, bà trở thành một thám tử say mê và bị cuốn hút vào vụ việc của mình, với niềm tin mình sẽ có được một câu chuyện tuyệt vời. Người trợ lý Tarbell cử xuống những khu phố nhỏ ở Cleveland tìm gặp những người có trí nhớ tốt đã viết về cho bà: "Tôi muốn nói với bà điều này, John D. Rockefeller là nhân vật kỳ lạ nhất, kín miệng nhất, bí hiểm nhất và thú vị nhất ở Mỹ. Người dân vùng này không biết gì về ông ta cả. Một nghiên cứu về nhân vật khác thường này sẽ là con át chủ bài cho McClue’s". Và Tarbell muốn chơi con bài đó. Nhưng làm thế nào Tarbell tiếp cận trực tiếp được Standard?

Một người mà Tarbell không ngờ tới đã hỗ trợ bà − đó là H. H. Rogers. Sau John Archbold, Rogers là giám đốc thâm niên lâu nhất và quyền lực nhất của Standard Oil, đồng thời cũng là một nhà đầu cơ độc lập xuất chúng. Ông phụ trách lĩnh vực đường ống và khí tự nhiên của Standard. Tuy nhiên, Rogers không chỉ quan tâm đến kinh doanh. Ông còn có đóng góp đáng kể cho nền văn học Mỹ. Trước đó một thập kỷ, ông từng giúp Mark Twain thoát khỏi khó khăn tài chính suýt dẫn tới vỡ nợ. Sau đó, ông trở thành bạn thân của Mark Twain, quản lý tài sản và đầu tư tiền cho Mark Twain để nhà văn nổi tiếng này, như lời ông nói, "không còn phải lo lắng về tài chính nữa". Rogers yêu thích các tác phẩm của Mark Twain và thường đọc chúng cho vợ con nghe. Tuy nhiên, trong kinh doanh, Rogers là một người rất cứng rắn và lạnh lùng.

Trong cuốn Who’s Who (Ai là ai), ông tự liệt mình vào hàng "tư bản". Những người khác gọi ông là "Rogers, kẻ đê tiện" vì những vụ đầu cơ vào phố Wall của ông. Rogers cho rằng Rockefeller không ủng hộ ông vì, theo như ông nói, ông là "một con bạc bẩm sinh". Và quả thực, mỗi khi thị trường chứng khoán đóng cửa vào cuối tuần, không có việc gì để làm, Rogers lại chơi bài poker. Chính Mark Twain đề nghị Rogers hỗ trợ chi phí học tập cho Helen Keller, một cô gái bị mù và điếc, để cô có thể tới Radcliffe. Bản thân Mark Twain luôn biết ơn Rogers, và gọi Rogers không chỉ là "người bạn tốt nhất mà tôi từng có", mà còn là "người tốt nhất tôi từng biết". Trớ trêu thay, trong thời kỳ làm nghề xuất bản sách, Mark Twain từng được đề nghị xuất bản cuốn sách Wealth against common wealth (Thịnh vượng chống lại thịnh vượng chung) của Demarest Lloyd.

Trong lá thư gửi vợ, ông viết: "Anh muốn nói rằng, người đàn ông duy nhất mà anh quan tâm trên thế giới này, người đàn ông duy nhất đã hào phóng đổ cả mồ hôi và máu của mình để cứu anh và người thân của anh khỏi chết đói và sự hổ thẹn, lại là một con quỷ của Standard Oil… Nhưng anh đã không nói như vậy. Anh chỉ nói rằng anh không muốn làm bất kỳ cuốn sách nào nữa; anh muốn từ bỏ việc xuất bản sách". Mark Twain tùy thích ra vào văn phòng của Rogers tại số 26 Broadway và thỉnh thoảng, ông còn dùng bữa trưa với "các quý ông tầng trên" trong phòng ăn riêng của họ.

Một ngày nọ, Rogers đề cập đến chuyện ông có nghe về việc McClue’s đang chuẩn bị xuất bản một cuốn sách về Standard Oil và đề nghị Mark Twain tìm hiểu thực hư việc đó ra sao. Vì cũng quen biết với McClue, Mark Twain đã nhận lời. Cuối cùng, Mark Twain sắp xếp cho Ida Tarbell gặp Rogers vào tháng 1 năm 1902. Tarbell cảm thấy e dè khi phải đối mặt trực tiếp với ông trùm quyền lực của Standard Oil. Tuy nhiên, Rogers đã dành cho bà sự tiếp đón nồng hậu. Ngay lập tức, Tarbell khẳng định, "trên mọi phương diện" Rogers chính là "nhân vật đẹp trai nhất và đạo mạo nhất ở phố Wall". Họ nhanh chóng thiết lập một mối quan hệ đặc biệt, vì hóa ra, khi Tarbell còn nhỏ, hai người không chỉ sống cùng thị trấn tại Vùng đất dầu, mà nhà máy lọc dầu nhỏ của Rogers khi đó còn nằm ở triền đồi ngay bên dưới nhà Tarbell.

Rogers kể với Tarbell rằng, hồi ấy ông sống trong một ngôi nhà thuê, mà vào thời điểm đó, việc thuê nhà để ở đồng nghĩa với "sự thú nhận thất bại trong làm ăn" để có thể có thêm tiền mua cổ phiếu của Standard Oil. Rogers nói ông vẫn còn nhớ rõ về cha Tarbell và tấm biển "Cửa hàng thùng Tarbell". Ông còn nói đó là những ngày tháng hạnh phúc nhất của ông. Có thể Rogers đã thể hiện cảm xúc chân thành song cũng có thể ông là một nhà tâm lý giỏi. Ông mê hoặc được Ida Tarbell. Nhiều năm sau, Tarbell vẫn thân mật gọi ông là "tên cướp biển đẹp trai với lá cờ mãi tung bay trên phố Wall".

Hai năm sau đó, Tarbell và Rogers thường xuyên gặp gỡ. Bà thường được đưa vào gặp ông qua một cửa và đi ra bằng một cửa khác, vì chính sách của công ty là cấm khách tới thăm chạm mặt nhau. Thỉnh thoảng, Tarbell thậm chí còn được sắp xếp một bàn làm việc ở số 26 Broadway. Bà vẫn đem các hồ sơ tới cho Rogers và ông lại cung cấp cho bà các tài liệu, số liệu, những điều chỉnh và giải thích. Rogers tỏ ra thật thà với Tarbell tới mức đáng ngạc nhiên.

Chẳng hạn, vào một ngày mùa đông, Tarbell mạnh dạn hỏi ông, Standard đã "thao túng pháp luật" bằng cách nào. "Ồ, dĩ nhiên là chúng tôi phải chăm sóc các cơ quan pháp luật rồi!" ông trả lời. "Họ tới đây và đề nghị chúng tôi đóng góp vào các quỹ phục vụ chiến dịch bầu cử của họ. Và chúng tôi làm điều này – Đó là, với tư cách cá nhân… chúng tôi cho tay vào túi và đưa cho họ vài món tiền lớn cho mục đích vận động tranh cử, rồi đến khi một đạo luật chống lại lợi ích của chúng tôi sắp ra đời, chúng tôi tới gặp nhà quản lý và nói: "Có một đạo luật như thế, như thế sắp sửa được ban hành đấy. Chúng tôi không thích thế và muốn ông quan tâm đến lợi ích của chúng tôi". Đó là cách mà mọi người vẫn làm".

Tại sao Rogers lại sẵn lòng giúp đỡ Tarbell như vậy? Một vài người cho rằng, đó là cách ông trả thù Rockefeller, người có mối quan hệ bất hòa với ông. Bản thân Rogers lại có cách giải thích thực tế hơn. Ông nói, tác phẩm của Tarbell "sẽ được coi là tác phẩm cuối cùng về Standard Oil," và dù thế nào Tarbell cũng sẽ viết tác phẩm này nên ông muốn làm mọi thứ có thể để câu chuyện về công ty được "hiểu đúng". Thậm chí, Rogers còn sắp xếp cho Tarbell gặp Henry Flagler, người đang chìm đắm trong hoạt động khai thác dầu quy mô lớn do chính ông làm chủ tại Florida. Tarbell phát cáu khi Flagler chỉ nói với giọng đạo đức giả rằng: "Chúng tôi giàu lên được là nhờ Chúa". Rogers cũng nói chung chung rằng ông có thể sẽ sắp xếp một cuộc phỏng vấn với Rockefeller, nhưng điều đó đã không bao giờ xảy ra. Rogers cũng không giải thích nguyên nhân.

Tarbell nói với một đồng nghiệp rằng, mục tiêu của bà là viết được "một câu chuyện lịch sử về Standard Oil". Bà "không có dự định" viết một câu chuyện "gây tranh cãi, mà là một bản tường thuật đi thẳng vào công ty độc quyền khổng lồ này, với sự sinh động và kịch tính mà tôi có thể tạo ra". Tự hào về những thành tựu của bản thân cũng như về công ty của mình, chắc hẳn Rogers cũng có cảm tưởng như vậy. Cho dù dự định ban đầu của Tarbell là gì đi nữa, thì loạt bài viết bắt đầu xuất hiện trên tờ McClue’s vào tháng 11 năm 1902 thực sự là một quả bom tấn.

Tháng này sang tháng khác, bà tung ra câu chuyện về những mưu đồ và hành vi thao túng, về việc hạ giá và sự cạnh tranh tàn bạo, về một Standard chỉ mỗi một ý đồ duy nhất và cuộc chiến bất tận mà công ty này giáng xuống đầu những công ty độc lập vốn đã mang đầy thương tích. Những bài báo này trở thành chủ đề bàn luận trên khắp cả nước và mở ra cánh cửa cho những nhà cung cấp tin tức mới. Sau một vài tháng đầu, Tarbell trở về Titusville thăm gia đình. Bà nói: "Thật thú vị khi thấy mọi việc đang diễn ra tốt đẹp và con vẫn chưa bị bắt cóc hay kiện ra tòa vì tội phỉ báng như một vài người bạn dự đoán. Mọi người sẵn sàng nói chuyện thoải mái với con". Ngay cả Rogers, bất chấp tất cả, vẫn dành cho Tarbell sự tiếp đón thân mật.

Nhưng sau đó, khi bà công bố một bài viết tiết lộ thông tin về cách thức hoạt động của hệ thống tình báo của Standard Oil thì Rogers nổi giận. Ông cắt đứt quan hệ và từ chối gặp bà. Tarbell vẫn không hề hối hận về những gì đã viết. Sau này, bà có nói, chính "sự sáng tỏ của những hoạt động gián điệp này… khiến tôi căm ghét Standard". Vì "có một sự đê hèn dường như vô cùng đáng khinh bỉ khi đem so sánh với những tài năng lớn gia nhập tổ chức này. Không một điều gì khác về Standard lại khiến tôi có cảm giác như vậy". Và chính cảm giác đó tạo cho các bài viết vạch trần những hành vi của Standard của Tarbell sức công phá mạnh mẽ.

Loạt bài của Tarbell được đăng liên tục trong 24 tháng và sau đó, vào tháng 11 năm 1904, được xuất bản thành một cuốn sách có tựa đề The History of Standard Oil Company (Lịch sử Công ty Standard Oil), với 64 phụ lục. Tác phẩm này có nội dung rất rõ ràng và có sức thuyết phục lớn. Tuy nhiên, ẩn dưới một văn phong được kiềm chế chính là sự giận dữ mãnh liệt và lời buộc tội sâu sắc đối với Rockefeller và những hành vi tàn bạo của tờ-rớt này.

Theo Tarbell, mặc dù có nhiều cống hiến thể hiện rõ những nguyên tắc xử thế của người Cơ đốc giáo, Rockefeller vẫn là một nhân vật tàn bạo, phi nhân tính. Bà viết: "Rockefeller đã chơi có hệ thống bằng một con xúc xắc gài bẫy, và từ năm 1872 chưa lần nào ông ta xuất phát công bằng trong cuộc đua với một đối thủ". Việc xuất bản cuốn sách của Ida Tarbell là một sự kiện lớn. Một nhà báo miêu tả cuốn sách lịch sử này là "tác phẩm xuất sắc nhất nước Mỹ về đề tài này". Samuel McClue nói với Tarbell: "Nói chung, bây giờ bà đã là người phụ nữ nổi tiếng ở Mỹ rồi… Đâu đâu người ta cũng nói về bà với sự sùng kính đến nỗi tôi đang cảm thấy e sợ bà đấy". Sau đó, từ châu Âu, McClue cho hay, thậm chí ngay cả những tờ báo ở đại lục này cũng "liên tục nhắc đến tác phẩm của bà".

Mãi tới thập niên 1950, các nhà sử học nghiên cứu về Standard Oil, những người vốn có thái độ không mấy thân thiện với cuốn sách của Tarbell, mới tuyên bố: "có lẽ cuốn sách này được nhiều người mua và nội dung của nó phổ biến rộng rãi trong công chúng hơn bất kỳ tác phẩm nào về lịch sử kinh tế và kinh doanh của nước Mỹ". Rõ ràng, đây là cuốn sách có ảnh hưởng nhất về chủ đề kinh doanh từng được xuất bản ở Mỹ. Tarbell giải thích: "Tôi không bao giờ phản đối quy mô và sự thịnh vượng của Standard, cũng như không bao giờ phản đối hình thức doanh nghiệp của họ. Tôi cũng cho rằng họ nên hợp nhất, phát triển lớn mạnh và giàu có ở mức họ có thể, nhưng chỉ bằng những cách thức hợp pháp. Tuy nhiên, họ chưa bao giờ chơi công bằng và điều đó đã hủy hoại sự vĩ đại của họ trong tôi". Tuy vậy, Ida Tarbell vẫn chưa thỏa mãn.

Năm 1905, bà tiếp tục theo đuổi đề tài này bằng cuộc tấn công cuối cùng – dựng lên một bức chân dung của Rockefeller. Người viết tiểu sử của Tarbell viết: "Bà phát hiện ông ta bị rụng tóc, có những cục u và là con trai của một người buôn dầu lửa xảo quyệt". Quả thực, Tarbell đã lấy hình dáng bên ngoài, bao gồm cả chứng rụng tóc do sức khỏe kém gây ra của Rockefeller để mô tả sự xuống cấp về đạo đức trong con người ông. Có lẽ, đó là sự báo thù cuối cùng của một người con gái thật sự của Vùng đất dầu. Vì khi Tarbell đang hoàn thành bài báo cuối cùng, cha bà, một nhà kinh doanh dầu lửa độc lập từng chống lại Rockefeller và bị đánh bại, qua đời ở Titusville.

Ngay khi kết thúc bài báo, bà vội vã trở về nhà, đến bên giường người cha quá cố. Vậy Rockefeller phản ứng thế nào? Khi những bài báo của Tarbell được xuất bản, một người hàng xóm già ghé thăm ông trùm dầu lửa đã đề cập tới nhân vật mà ông gọi là "bà bạn" của Rockefeller – Ida Tarbell. Rockefeller trả lời: "Tôi nói cho ông biết nhé, mọi thứ đã thay đổi kể từ khi ông và tôi còn là những đứa trẻ. Thế giới đầy những người xã hội chủ nghĩa và những người theo chủ trương vô chính phủ. Bất kỳ ai có được thành công lớn trong một lĩnh vực kinh doanh cũng sẽ bị họ nhảy bổ vào chê bai".

Sau đó, người hàng xóm trên đã gọi quan điểm của Rockefeller là quan điểm "của một chiến binh trong trận chiến, biết rằng thỉnh thoảng mình sẽ bị đánh vào đầu. Ông ấy không phải là người ít chịu đau đớn nhất vì bất kỳ đòn tấn công nào. Ông ấy vẫn cho rằng Standard làm được nhiều việc tốt hơn là những việc xấu". Vào dịp khác, có người tình cờ nghe thấy Rockefeller nói về "bà bạn" với cái tên thân mật – "Cô Thùng nhựa đường".

Bom phá tờ-rớt

Tarbell hoàn toàn không phải là một người xã hội chủ nghĩa. Nếu có một cương lĩnh cho cuộc tấn công của bà vào Standard Oil thì đó chính là lời kêu gọi tìm kiếm một lực lượng đối kháng để chống lại sức mạnh của doanh nghiệp này. Đối với Theodore Roosevelt, người trở thành Tổng thống Mỹ năm 1901, lực lượng đối kháng này chỉ có thể là Chính phủ. Theodore Roosevelt là hiện thân của phong trào tiến bộ. Ông là Tổng thống Mỹ trẻ tuổi nhất tính đến thời điểm đó, một con người luôn tràn đầy sinh lực và lòng nhiệt tình. Người ta gọi ông là "ngôi sao băng của thời đại". Sau cuộc gặp gỡ với Roosevelt, một nhà báo viết: "Anh hãy bộc lộ cá tính của mình".

Roosevelt theo đuổi sự nghiệp cải cách trên mọi phương diện, từ việc làm trung gian cho cuộc chiến tranh Nga – Nhật tới việc thúc đẩy cách viết chính tả đơn giản. Với việc thứ nhất, ông được trao tặng giải thưởng Nobel Hòa bình năm 1906. Còn với việc thứ hai, cũng trong năm 1906, ông vận động Văn phòng in ấn Chính phủ Mỹ thích nghi với 300 cách viết giản tiện của những từ quen thuộc – ví dụ, viết "dropt" thay vì viết "dropped". Tòa án tối cao không chấp nhận những cách viết như vậy trong các văn bản luật, nhưng Roosevelt vẫn kiên quyết sử dụng cách viết này trong thư từ cá nhân của ông.

Chính Roosevelt là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ "người cào bùn" để chỉ các nhà báo và phong trào tiến bộ. Ông dùng từ này với nghĩa chế giễu vì cho rằng, những cuộc tấn công của họ vào các chính trị gia và các công ty là quá tiêu cực và quá tập trung vào "mặt xấu xa và việc hạ thấp" những đối tượng đó. Ông lo ngại những bài viết của các nhà báo này sẽ làm bùng lên ngọn lửa cách mạng và cuốn mọi người vào chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa vô chính phủ. Tuy nhiên, ông đã sớm lấy chương trình hành động của họ làm chương trình của mình – bao gồm việc chỉnh đốn các công ty đường sắt và ngành công nghiệp đóng gói thịt đang trong tình trạng khủng khiếp, cũng như bảo vệ các nhà sản xuất thực phẩm và dược phẩm.

Trọng tâm trong chương trình của Roosevelt là kiểm soát sức mạnh của các doanh nghiệp và mục tiêu này khiến ông có biệt danh là "Bom phá tờ-rớt". Ông không phản đối bản thân các tờ-rớt. Thực tế, ông coi việc hợp nhất là đặc điểm tất yếu và logic của sự tiến bộ kinh tế. Roosevelt từng cho rằng, việc dùng pháp luật để chống lại xu thế hợp nhất khó hơn cả việc chống đỡ những trận lụt vào mùa xuân trên sông Missisippi. Tuy nhiên, vị tổng thống này cũng nói: "Chúng ta có thể điều chỉnh và kiểm soát chúng bằng những con đê," có nghĩa là, bằng các quy định và giám sát của dư luận. Theo ông, việc cải cách như vậy rất quan trọng để tránh chủ nghĩa cấp tiến và cách mạng và duy trì hệ thống hiện tại của nước Mỹ. Roosevelt có sự phân biệt giữa tờ-rớt "tốt" và tờ-rớt "xấu", và chỉ những tờ-rớt "xấu" mới đáng bị giải thể. Trong sự nghiệp này, ông không bao giờ chịu dừng lại. Dưới thời Roosevelt có ít nhất 45 vụ kiện chống độc quyền.

Những trận chiến tiếp theo chĩa mũi nhọn chính vào, ông tổ của các tờ-rớt - Standard Oil. Công ty của Rockefeller trở thành con rồng mà hiệp sĩ dũng mãnh Roosevelt thích tấn công vì không có đối thủ nào tuyệt vời hơn cho trận đấu. Mặc dù vậy, Roosevelt vẫn tìm kiếm sự ủng hộ của khu vực doanh nghiệp lớn trong chiến dịch bầu cử của ông năm 1904, và ban lãnh đạo của Standard Oil đã cố gắng chìa tay ra với ông. Khi một nghị sĩ có quan hệ thân thiện với Standard Oil, đồng thời cũng là chủ tịch một công ty con của Standard, cho Archbold biết, Roosevelt nghĩ rằng công ty của Rockefeller đối lập với ông, Archbold đã trả lời: "Tôi luôn ngưỡng mộ ngài tổng thống và đã đọc mọi cuốn sách ông ấy viết." Vị nghị sĩ này có một ý tưởng rất hay.

Một tác giả là tổng thống, đặc biệt là một người sáng tác nhiều như Roosevelt, chắc chắn sẽ là đối tượng của những lời tâng bốc. Ông truyền đạt những lời nói trên của Archbold tới tổng thống và sử dụng cách mào đầu đó để sắp xếp một cuộc gặp gỡ. Đắc thắng, nghị sĩ này viết thư cho Archbold, nói: "Lĩnh vực sách" đã đem lại thành công trong trò chơi ngay từ phát bắn đầu tiên". Nhưng ông này cũng cảnh báo: "Ít nhất, ông nên đọc tựa đề của các cuốn sách đó để nhớ lại nội dung của chúng trước khi tiến hành bước tiếp theo". Sự tâng bốc có thể đưa Archbold tới được cánh cửa trước, nhưng không thể giúp ông tiến xa thêm.

Một vài năm sau, ông giận dữ nói: "Vùng Abyssinia (tên cũ của Ethiopia) cũng chưa từng chứng kiến bất kỳ điều gì giống như cách chính phủ đối xử với chúng tôi sau khi Roosevelt thắng cử năm 1904". Trước ngày bầu cử, Đảng Dân chủ đã đem chuyện những doanh nghiệp lớn đóng góp cho chiến dịch tranh cử của phe Cộng hòa, bao gồm 100 nghìn đô-la của Archbold và H. H. Rogers trở thành một chủ đề gây tranh cãi lớn. Roosevelt liền ra lệnh trả lại số tiền 100 ngàn đô-la kia và ngay sau đó, đột nhiên công khai hứa với mọi người Mỹ điều đã trở thành khẩu hiệu của ông, một "thỏa thuận sòng phẳng".

Liệu số tiền trên có thật sự được trả lại hay không là một vấn đề khác. Bộ trưởng Tư pháp Philander Knox kể với William Howard Taft[4], người kế nhiệm Roosevelt rằng, khi ông bước vào văn phòng Roosevelt vào tháng 10 năm 1904, ông nghe thấy tổng thống đang đọc cho thư ký viết một bức thư chỉ đạo việc trả lại số tiền 100 nghìn đô-la cho Standard Oil. "Tại sao vậy, thưa Tổng thống, số tiền đó đã bị tiêu hết rồi. Họ không thể trả lại số tiền đó được, họ không có số tiền đó". Knox nói. Roosevelt trả lời: "Ồ, nhưng dù sao, lá thư này cũng sẽ được lịch sử ghi nhận".

Ngay sau khi Roosevelt trúng cử năm 1904, chính quyền của vị tổng thống này mở một cuộc điều tra Standard Oil và ngành công nghiệp dầu lửa. Kết quả là một bản chỉ trích gay gắt việc tờ-rớt này kiểm soát lĩnh vực vận tải, được thổi phồng thêm bởi những lời tố cáo Standard của chính Roosevelt. Áp lực bất lợi cho Standard ngày càng tăng đến mức Archbold và H. H. Rogers phải vội vã tới Washington vào tháng 3 năm 1906 để gặp Roosevelt và xin tổng thống không cho tiến hành kiện Standard.

Sau cuộc gặp với Roosevelt, Archbold viết thư gửi cho một giám đốc khác của Standard là Henry Flagler, nói rằng: "Chúng tôi nói với ông ấy rằng chúng ta đã bị điều tra đi điều tra lại rồi, báo cáo đi báo cáo lại rồi. Nhưng chúng ta có thể chịu đựng được điều đó. Ông ấy kiên nhẫn lắng nghe tất cả những gì chúng tôi nói và tôi nghĩ là ông ấy cũng khá bị ấn tượng…. Không thể nào buổi làm việc với tổng thống lại không có kết quả tốt đẹp".

Vụ kiện

Archbold đang lừa dối bản thân và đồng nghiệp. Vì vào tháng 11 năm 1906, điều phải đến cuối cùng đã đến: Tại tòa án lưu động liên bang ở St. Louis, chính quyền Roosevelt đã tiến hành vụ kiện chống Standard Oil. Theo Đạo luật Chống độc quyền Sherman năm 1890, Standard bị buộc tội có âm mưu cản trở thương mại. Trong thời gian diễn ra vụ kiện này, Roosevelt thổi bùng ngọn lửa căm hận trong dư luận.

Tổng thống công khai tuyên bố: "Trong sáu năm qua, những con người này không hề trung thực trong kinh doanh". Ông còn nói riêng với Bộ trưởng Tư pháp rằng, các giám đốc của Standard là "những tên tội phạm lớn nhất của đất nước này". Bộ Chiến tranh (tên gọi cũ của Bộ Quốc phòng) thông báo sẽ ngừng mua các sản phẩm dầu của Standard Oil. Không muốn bị qua mặt, ứng cử viên lâu năm cho chức tổng thống của phe Dân chủ, William Jennings Bryan, cũng tuyên bố rằng điều tốt đẹp nhất có thể xảy ra cho nước Mỹ là việc đưa Rockefeller ra tòa. Standard Oil nhận ra rằng mình đang ở trong một cuộc chiến một mất một còn. Cục diện đã thay đổi và giờ đây, Chính phủ Mỹ đang đưa Standard vào tình huống "toát mồ hôi hột".

Một lãnh đạo của Standard viết cho Rockefeller: "Chính phủ đã bắt đầu một chiến dịch có tính toán nhằm hủy diệt Standard và tất cả những người có dính líu đến tờ-rớt này, cũng như sử dụng mọi nguồn lực để đạt được mục tiêu đó". Để phòng vệ, Standard huy động những luật sư tài năng nhất. Đứng đầu vụ kiện của Chính phủ Mỹ là luật sư Frank Kellogg, người 20 năm sau trở thành Ngoại trưởng Mỹ. Trong hơn 2 năm, 444 nhân chứng đã cung cấp lời khai và 1.371 vật chứng được đưa ra trước tòa. Hồ sơ đầy đủ của vụ kiện này dày tới 14.495 trang và được đóng thành 21 tập. Sau này, thẩm phán Tòa án tối cao đã miêu tả bộ hồ sơ này là "quá đồ sộ… chứa đựng một khối lượng lớn những lời khai trái ngược nhau có liên quan đến những giao dịch đa dạng, phức tạp, trải rộng trong một thời kỳ dài gần 40 năm".

Trong khi đó, các vụ kiện khác chống lại Standard cũng đang diễn ra. Thỉnh thoảng, Archbold lại cố gắng không chú ý tới cuộc tấn công ác liệt từ phía tòa án và chính quyền đó. Trong một bữa tiệc lớn có đông người tham gia, ông phát biểu: "Suốt gần 44 năm trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, tôi đã tham gia một nỗ lực có phần khó khăn để cản trở hoạt động thương mại của dầu lửa và các sản phẩm từ dầu, tại nước Mỹ, tại quận Columbia, và ở nước ngoài. Lời thú nhận tôi đưa ra với các bạn là một thông tin mật, và tôi tin chắc các bạn sẽ không giao tôi cho chính phủ". Tuy nhiên, dù có đùa tếu như vậy, Archbold và các đồng nghiệp vẫn vô cùng lo lắng.

Năm 1907, ông bí mật viết: "Chính quyền liên bang đang nỗ lực hết sức để chống lại chúng tôi. Tổng thống đã chỉ định các quan tòa, đồng thời cũng là ban hội thẩm xử những vụ kiện công ty này… Tôi không cho rằng họ có thể ăn thịt chúng tôi, cho dù họ có thể thành công trong việc xúi bẩy dân chúng thực hiện việc phá hoại. Chúng tôi sẽ cố gắng hết mình để bảo vệ các cổ đông. Còn xa hơn nữa thì cả tôi hay bất kỳ ai cũng chưa thể nói được điều gì". Cùng năm đó, trong một vụ kiện khác, Kenesaw Mountain Landis, một quan tòa liên bang đã phạt Standard Oil một khoản tiền lớn vì nhận những khoản chiết khấu trái pháp luật. Quan tòa này cũng lên án "thái độ xấc xược cố ý" của các luật sư bào chữa cho Standard Oil và lấy làm tiếc vì "chưa có sự trừng phạt đích đáng".

Khi Rockefeller đang chơi golf với vài người bạn ở Cleveland thì một cậu bé đưa tin xuất hiện, mang theo quyết định của tòa án. Rockefeller xé chiếc phong bì, đọc nội dung bên trong, rồi bỏ vào trong ví. Sau đó, ông cất lời, phá vỡ sự im lặng: "Ồ, các bạn, chúng ta tiếp tục chứ?" Một người có mặt khi đó không kiềm chế được và hỏi ông phán quyết đó ở mức độ nào. Rockefeller trả lời: "Tôi nghĩ không thể có hình phạt nào cao hơn được nữa – 29 triệu đô-la". Sau đó, ông nghĩ lại và nói thêm: "Còn rất lâu sau khi quan tòa Landis chết, khoản tiền phạt này mới được nộp". Rockefeller chỉ buông mấy lời như vậy rồi lại tiếp tục đánh golf, với thái độ dường như bình thản, và chơi một trong những trận golf hay nhất trong đời. Quả thực, phán quyết của Landis cuối cùng đã bị đảo lộn.

Nhưng sau đó, năm 1909, trong một vụ kiện chống độc quyền lớn, tòa án liên bang, với sự ủng hộ của chính phủ, đã ra lệnh giải thể Standard Oil. Lúc này, Theodore Roosevelt không có mặt tại Văn phòng tổng thống và đang trên đường trở về sau một chuyến đi săn thú lớn ở châu Phi. Ông nghe được tin này khi đang ở trên sông Nile Trắng và rất đắc chí. Ông nói, quyết định này "là một trong những chiến thắng nổi bật nhất dành cho sự khuôn phép từng thiết lập được trên đất nước này". Về phần mình, Standard Oil không bỏ phí thời gian kháng cáo lên Tòa án tối cao. Vụ kiện này được xử lại ở Tòa án tối cao tới hai lần do hai thẩm phán qua đời. Cả ngành công nghiệp dầu lửa và giới tài chính cùng bồn chồn chờ đợi kết quả vụ kiện.

Cuối cùng, vào tháng 5 năm 1911, cuối một buổi chiều hết sức buồn tẻ, Thẩm phán Edward White tuyên bố: "Tôi tuyên bố quan điểm của Tòa án tối cao, nước Mỹ phản đối Công ty Standard Oil". Những con người trong bầu không khí nóng bức, ngột ngạt và ảm đạm của phòng xử án đột nhiên bừng tỉnh và căng tai lắng nghe. Rồi các thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ lao vào phòng. Trong 45 phút sau đó, Thẩm phán White phát biểu, nhưng ông nói khó nghe đến nỗi vị thẩm phán ngay bên trái ông nhiều lần phải ngả người về phía trước và đề nghị ông nói to hơn để mọi người có thể nghe thấy những từ ngữ quan trọng.

Thẩm phán White giới thiệu một nguyên tắc mới, trong đó việc đánh giá của cơ quan pháp luật về hành vi hạn chế thương mại theo đạo luật Sherman sẽ dựa trên phương pháp phán xét trên cơ sở giải trình

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 5)

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 5)

Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast – Trò chuyện cùng Công Thương ngày hôm nay, bài viết của tác giả Hà Nam (giới thiệu) được đăng tải trên trang Thông tin điện tử của Tập đoàn Dầu khí Việt Nam tại trang web pvn.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Thị trường của ngành công nghiệp dầu lửa sẽ dịch chuyển nhanh chóng. Và gần như cùng lúc, bản đồ khai thác của ngành công nghiệp dầu lửa Mỹ cũng sẽ biến đổi chóng mặt, và các đối thủ Mỹ mới sẽ xuất hiện, thách thức vị trí thống lĩnh của Standard.

Chương 4: Thế kỷ mới

"Ngôi nhà cổ" là từ mà một số công ty dầu mỏ độc lập dùng để gọi Standard Oil. Công ty này đã vươn cao như một tòa nhà khổng lồ và uy nghi, đổ bóng về mọi phía, thống trị mọi ngóc ngách của ngành công nghiệp dầu lửa Mỹ. Trong khi các đối thủ cạnh tranh nước ngoài đang thách thức "Ngôi nhà cổ" ở các thị trường bên ngoài nước Mỹ, thì thị trường trong nước lại có phần cam chịu chấp nhận. Dường như việc cuối cùng Standard Oil sẽ sở hữu và kiểm soát tất cả mọi thứ là điều không thể tránh khỏi.

Tuy nhiên, những gì diễn ra trong thập niên 1890 và thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XX sẽ đe dọa vị trí vượt trội của "Ngôi nhà cổ". Thị trường của ngành công nghiệp dầu lửa sẽ dịch chuyển nhanh chóng. Và gần như cùng lúc, bản đồ khai thác của ngành công nghiệp dầu lửa Mỹ cũng sẽ biến đổi chóng mặt, và các đối thủ Mỹ mới sẽ xuất hiện, thách thức vị trí thống lĩnh của Standard. Không chỉ thế giới, mà chỉ riêng nước Mỹ, cũng sẽ trở nên quá rộng lớn, thậm chí là đối với Standard Oil.

Nhà máy lọc dầu của Standard Oil tại Richmond- California

Những thị trường bị mất và giành được Cuối thế kỷ XIX, dầu hỏa, khí đốt và nến là những nhiên liệu đáp ứng nhu cầu nguồn ánh sáng nhân tạo của con người. Các nhà máy địa phương sản xuất khí đốt từ than hoặc dầu hoặc trực tiếp khai thác và vận chuyển khí đốt tự nhiên. Tất cả ba loại chất đốt này – dầu hỏa, khí đốt và nến – cùng có những vấn đề nghiêm trọng như nhau. Chúng tạo ra muội, bụi và hơi nóng. Chúng ngốn ôxy và luôn tiềm ẩn nguy cơ gây hỏa hoạn. Vì lý do này, nhiều tòa nhà, bao gồm cả tòa nhà Gore Hall, thư viện của Đại học Harvard, không được chiếu sáng bằng những nhiên liệu này. Sự thống trị của dầu hỏa, khí đốt và nến cũng không kéo dài.

Năm 1877, Thomas Alva Edison – phát minh ra bóng đèn điện. Chỉ trong hai năm, ông đã phát triển được loại bóng đèn nóng sáng chịu nhiệt. Đối với Edison, phát minh không chỉ là niềm đam mê, mà còn là công việc làm ăn. Ông từng viết: "Chúng tôi sẽ liên tục tạo ra những thứ có giá trị thương mại – đó là mục tiêu của phòng thí nghiệm này. Chúng tôi không thể giống như vị giáo sư Đức già nua, người chỉ cần có bánh mì đen và bia để dành cả cuộc đời nghiên cứu những cái lông tơ trên thân con ong".

Ngay lập tức, Edison chuyên tâm vào việc thương mại hóa phát minh bóng đèn điện của ông, và trong quá trình này, ông đã phát minh ra máy phát điện. Thậm chí, Edison còn rất thận trọng trong việc định giá điện sao cho giá của nó có khả năng cạnh tranh cao. Ông đã xây dựng một dự án thuyết minh sản phẩm của mình ở khu Hạ Manhattan, một khu vực bao gồm cả Phố Wall. Năm 1882, từ văn phòng của ông chủ nhà băng J. P. Morgan mà ông có quan hệ làm ăn, Edison bật công tắc, khởi động máy phát điện và mở cánh cửa không chỉ của một ngành công nghiệp mới mà còn của một phát minh sẽ làm biến đổi cả thế giới. Điện đem lại thứ ánh sáng siêu việt, điện không cần người sử dụng phải chăm sóc, và người ta không thể cưỡng lại sức hấp dẫn của điện.

Đến năm 1885, có 250.000 bóng đèn điện được sử dụng và năm 1902, con số này đã là 18 triệu. "Ánh sáng mới" giờ đây là ánh sáng từ điện chứ không phải từ dầu hỏa. Các công ty cung cấp khí đốt tự nhiên phải chuyển sang cung cấp khí đốt cho các mục đích sưởi ấm và nấu bếp. Trong khi đó, thị trường dầu hỏa ở Mỹ, thị trường chủ lực của ngành công nghiệp dầu lửa, ngừng tăng trưởng và ngày càng thu hẹp lại tại khu vực nông thôn. Công nghệ mới này cũng nhanh chóng được chuyển sang châu Âu.

Năm 1882, một hệ thống chiếu sáng bằng điện đã được lắp đặt tại nhà ga Holborn Viaduct ở London. Điện và các công nghệ liên quan đã thâm nhập Berlin nhanh chóng và sâu rộng đến nỗi người ta gọi thành phố này là Elektropolis (Đô thị điện). Sự phát triển của điện ở London diễn ra bừa bãi và vô tổ chức hơn. Đầu thế kỷ XX, London có 65 nhà máy cung cấp điện khác nhau. "Người London có thể dùng bánh mì trong bữa sáng được nướng bằng điện của một nhà máy này, dùng điện chiếu sáng trong văn phòng của họ bằng điện của một nhà máy khác, đến gặp các cộng sự trong những tòa nhà văn phòng gần đó, nơi sử dụng một loại điện khác, và đi bộ trên phố để về nhà dưới những ngọn đèn lại sử dụng một loại điện khác nữa". Đối với những người được tiếp cận điện, năng lượng này là một ân huệ lớn. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng của điện là một mối đe dọa sâu sắc với ngành công nghiệp dầu lửa, và đặc biệt là "Ngôi nhà cổ".

undefined
Standard Oil là một công ty sản xuất, vận chuyển, tinh chế và tiếp thị dầu mỏ của Mỹ.

Tương lai mà Standard Oil – với khối đầu tư khổng lồ vào khai thác dầu, lọc dầu, xây dựng đường ống, các kho chứa và hệ thống phân phối – sẽ phải đối mặt nếu mất đi thị trường chính của, thị trường chất đốt là gì? Tuy nhiên, ngay khi một thị trường đang chuẩn bị mất đi thì một thị trường mới lại được mở ra – thị trường nhiên liệu cho loại "xe kéo không dùng ngựa," nói cách khác, chính là ôtô. Một vài loại xe như vậy chạy bằng động cơ đốt trong, loại động cơ sử dụng nhiên liệu là xăng để tạo ra lực đẩy cho xe chạy. Là loại phương tiện giao thông gây nhiều tiếng ồn, có khí thải độc hại và không đáng tin cậy cho lắm, nhưng xe gắn động cơ đốt trong đã giành được sự tín nhiệm ở châu Âu sau cuộc đua Paris-Bordeaux-Paris năm 1895. Trong cuộc đua này, có xe tham dự đạt tới vận tốc đáng kể là 15 dặm/giờ.

Năm sau đó, cuộc đua ôtô đầu tiên diễn ra tại vịnh Narragansett, bang Rhode Island. Đây là một cuộc đua chậm chạp và buồn tẻ đến nỗi khán giả phải kêu lên: "Kiếm một con ngựa đi!" Mặc dù vậy, ở Mỹ cũng như ở châu Âu, xe không do ngựa kéo nhanh chóng thu hút sự chú ý của các nhà phát minh có đầu óc kinh doanh. Một người trong số này là kỹ sư trưởng của Công ty chiếu sáng Edison ở Detroit. Ông đã bỏ việc để tập trung vào việc thiết kế, sản xuất và đưa ra thị trường một loại xe chạy bằng xăng mang tên ông – xe Ford. Chủ nhân đầu tiên của chiếc xe đầu tiên do Henry Ford sản xuất đã bán lại chiếc xe này cho một người khác là A. W. Hall và ông này nói với Ford mình đã bị cuốn vào "cơn sốt xe không ngựa". Hall xứng đáng có một vị trí đặc biệt trong trái tim của những người sử dụng xe hơi trong tương lai, với tư cách là chủ nhân đầu tiên được ghi nhận của một chiếc xe hơi đã qua sử dụng.

Đến năm 1905, xe hơi chạy bằng xăng đã đánh bại các đối thủ chạy bằng hơi nước và điện về mức độ tự động, đồng thời thiết lập được vị trí bá chủ toàn diện của mình. Tuy nhiên, người ta vẫn băn khoăn về độ khó sử dụng và mức độ tin cậy của loại xe này. Nhưng một lần rồi mãi mãi, những câu hỏi này đã bị đẩy lui bởi trận động đất xảy ra ở San Francisco năm 1906. Khi đó, 200 chiếc xe hơi tư nhân đã được huy động cho việc giải cứu và tiếp tế hay bằng 15.000 gallon xăng do Standard Oil tài trợ.

Quyền giám đốc cơ quan cứu hỏa của San Francisco, người đã chỉ huy ba chiếc xe làm việc suốt ngày đêm, phát biểu: "Trước khi trận động đất này xảy ra, tôi đã nghi ngờ ôtô. Nhưng bây giờ, tôi thật tâm đánh giá cao loại xe này". Cũng trong năm đó, một nhà báo hàng đầu đã viết, ôtô "không còn là một chủ đề cho những người thích đùa nữa, và hiếm khi chúng ta còn nghe thấy câu nói nhạo báng: "Kiếm một con ngựa đi!". Thậm chí còn hơn thế, xe hơi đã trở thành một biểu tượng của địa vị. Một nhà văn viết: "Ôtô là thần tượng của thời hiện đại. Người đàn ông sở hữu một chiếc xe hơi không chỉ có được những niềm vui du ngoạn, mà còn cả sự ngưỡng mộ của đám đông đi bộ, và… là một vị thánh đối với phụ nữ".

Sự phát triển của ngành công nghiệp xe hơi là một hiện tượng đáng kinh ngạc. Lượng ôtô đăng ký tại Mỹ tăng từ 8.000 xe năm 1900 lên 902.000 xe năm 1912. Trong một thập kỷ, từ chỗ là một sản phẩm mới, ôtô đã trở thành một vật quen thuộc, làm biến đổi bộ mặt và tập tục của xã hội hiện đại. Và xe hơi hoàn toàn phụ thuộc vào dầu. Từ trước tới giờ, xăng chỉ là một sản phẩm không quan trọng của quá trình lọc hóa dầu, với giá trị khiêm tốn là làm một số loại dung môi và nhiên liệu đốt lò. Còn đối với các mục đích sử dụng khác, xăng không có giá trị gì.

Năm 1892, một người làm trong ngành công nghiệp dầu lửa đã tự chúc mừng khi bán được xăng với giá khoảng 2 xu/gallon. Nhưng điều này đã thay đổi với sự xuất hiện của ôtô, loại phương tiện giao thông đã biến xăng thành thứ nhiên liệu ngày càng có giá trị. Ngoài thị trường xăng, một thị trường lớn thứ hai cho dầu lửa cũng đang phát triển cùng với việc dầu nhiên liệu ngày càng được sử dụng nhiều cho nồi hơi trong các nhà máy, tàu hỏa và tàu thủy. Tuy nhiên, khi câu hỏi gây lo lắng về vấn đề thị trường trong tương lai cho dầu lửa đang được nhanh chóng giải quyết thì một câu hỏi bi quan mới lại nổi lên: Lấy đâu ra nguồn cung để cung cấp đủ cho những thị trường đang bùng nổ này? Sản lượng dầu của Pennsylvania đã giảm xuống. Mỏ dầu Lima ở bang Ohio và Indiana không thể tương xứng với thị trường. Liệu có thể tìm thấy các mỏ dầu mới không? Và tìm kiếm ở đâu? Và ai sẽ là người kiểm soát những mỏ dầu đó?

Những cuộc vượt ngục

Địa vị của Standard Oil trong ngành công nghiệp dầu lửa đã bắt đầu bị lung lay trước khi thế kỷ XIX kết thúc. Cuối cùng, một số công ty sản xuất và cung cấp dầu lửa đã có thể thoát khỏi gọng kìm của các hệ thống đầu mối, đường ống và nhà máy lọc dầu của Standard để giành lấy sự độc lập thật sự ở mức độ nhất định.

Vào đầu thập niên 1890, một nhóm công ty dầu mỏ độc lập ở Pennsylvania đã hợp tác với các công ty lọc dầu để thành lập Công ty dầu mỏ của các nhà sản xuất và lọc dầu. Nhận thấy sẽ không thể có được cơ hội thắng "Ngôi nhà cổ" thật sự nếu không tìm ra cách đưa dầu ra khỏi Vùng đất dầu và tới khu vực bờ biển với mức giá cạnh tranh, công ty mới này đã tiến hành xây dựng đường ống riêng. Những công nhân xây dựng đường ống này phải đương đầu với những cuộc tấn công vũ trang của các công nhân đường sắt, cũng như hơi nước, nước nóng và than nóng đổ xuống người họ từ các đầu máy xe lửa. Những trở ngại này có thể chính là "bàn tay đeo găng" của Standard Oil. Nhưng cuối cùng đường ống này cũng đã được xây dựng.

Năm 1895, những công ty độc lập khác nhau này đã thành lập Công ty Pure Oil để tổ chức phát triển thị trường ở nước ngoài và tại khu vực Bờ Đông. Pure Oil được xây dựng như một tờ-rớt, với các ủy viên quản trị được chỉ định là "các nhà quán quân của tự do". Theo thói quen, Standard Oil kiên trì tìm cách mua lại và giành quyền kiểm soát các bộ phận cấu thành của Pure Oil. Tuy nhiên, mặc dù đã có một số cuộc điện thoại bí mật, Standard cũng không thể đạt được mục đích trên. Và chỉ trong vòng một vài năm, Pure Oil đã phát triển thành một công ty hợp nhất hoàn toàn có những thị trường xuất khẩu lớn. Mặc dù Pure Oil vẫn là một công ty nhỏ so với gã khổng lồ Standard, song các nhà sản xuất và lọc hóa dầu độc lập cuối cùng đã biến giấc mơ của mình thành hiện thực. Họ đã thành công trong việc thách thức Standard Oil và cách ly họ khỏi tổ chức này.

Còn Standard Oil, không còn lựa chọn nào khác, buộc phải tự thích nghi với thực tế không mấy dễ chịu về cuộc cạnh tranh căng thẳng và dài lâu ở thị trường trong nước. Tuy nhiên, các hoạt động của công ty Pure Oil hoàn toàn diễn ra tại Pennsylvania. Theo lẽ thường, dầu lửa là một hiện tượng tại miền Đông nước Mỹ và mọi người luôn thấy bi quan mỗi khi bàn về những nguồn cung mới. Tuy nhiên, những mỏ dầu mới vẫn được phát hiện về phía Đông, ngang qua đại lục Bắc Mỹ, tại bang Colorado và Kansas. Có một vùng đất thậm chí còn xa hơn về phía Tây, ngang qua dãy núi Rockies, bang California. Nhựa asphalt rò rỉ và nhựa tarpit là những dấu hiệu cho thấy nơi này có khả năng có dầu.

Vào thập niên 1860, hoạt động xúc tiến khai thác dầu lửa diễn ra mạnh mẽ ở Bắc Los Angeles. Benjamin Silliman Con, người đã tán thành dự án của George Bissell và "Đại tá" Drake vào những năm 1850, đồng thời cũng là một người luôn kiếm việc làm thêm, đã nhận làm tư vấn cho nhiều dự án xúc tiến khai thác dầu lửa ở California. Vị giáo sư danh tiếng của Đại học Yale này không kiềm chế sự hăng hái của mình. Giá trị của một nông trại "là sự giàu có gần như hoang đường trên mỏ dầu tốt nhất", ông viết. Còn giá trị của một nông trại khác "là khối lượng dầu có thể khai thác ở đây gần như không có giới hạn".

Tuy nhiên, nghiên cứu của Silliman không chính xác tuyệt đối. Mặc dù ông đã tới một vài nơi trong số những khu vực mà ông đưa ra đánh giá song những khu vực khác ông mới chỉ nhìn thấy từ xe ngựa khi đi từ Los Angeles tới. Thậm chí, có khu vực ông còn chưa đặt chân tới bao giờ. Lý do khiến các cuộc thí nghiệm của ông cho thấy khả năng có dầu cao tới mức như vậy là vì mẫu dầu ông phân tích đã được trộn thêm loại dầu tinh lọc hạng nhất của Pennsylvania, được lấy từ kệ hàng của một bách hóa tổng hợp ở Nam California.

Cuối thập niên 1860, sự bùng nổ hoạt động khai thác dầu ở Los Angeles đã lắng xuống, khiến triển vọng dầu lửa của California mờ đi. Danh tiếng của Giáo sư Silliman thậm chí còn bị ảnh hưởng thậm tệ hơn. Cảm thấy quá mất mặt và thất thế, người từ trước đến nay vẫn là một trong những nhân vật ưu tú nhất của nền khoa học Mỹ buộc phải từ chức giáo sư hóa học tại Đại học Yale. Tuy nhiên, chỉ khoảng một thập kỷ sau, Silliman gần như được minh oan. Một sản lượng dầu khiêm tốn đã được khai thác tại những khu vực mà ông đánh giá – ở hạt Ventura và phía bắc thung lũng San Fernado miền Bắc Los Angeles, một thị trấn khi đó chỉ có 8.000 người. Nhiều người từng lo ngại rằng dầu lửa giá rẻ từ nước ngoài sẽ tràn vào Mỹ, với sự trợ giúp của chính sách xóa bỏ thuế nhập khẩu dầu, và như thế, sẽ chèn ép ngành công nghiệp dầu lửa địa phương của California. Tuy nhiên, nhờ các biện pháp can thiệp chính trị tài tình, thuế nhập khẩu dầu đã không bị hạ xuống mà thậm chí còn tăng gấp hai lần.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 4)

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực (Kỳ 4)

Kính thưa quý vị, trên đây là nhan đề của bài viết trong mục Podcast – Trò chuyện cùng Công Thương ngày hôm nay, bài viết của tác giả Hà Nam (giới thiệu) được đăng tải trên trang Thông tin điện tử của Tập đoàn dầu khí Việt Nam tại trang web pvn.vn, kính mời quý vị cùng lắng nghe.

Cánh cửa vào thương mại thế giới đã mở ra và dầu của châu Mỹ nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường trên toàn thế giới.

Chương 3: Thương mại cạnh tranh

Phần còn lại của thế giới đang chờ đợi thứ "ánh sáng mới" từ Mỹ, song việc tổ chức đưa chuyến tàu chở dầu đầu tiên tới châu Âu không phải là điều dễ dàng. Các thủy thủ rất lo sợ khả năng cháy nổ xảy ra trong quá trình vận chuyển dầu lửa. Tuy nhiên, cuối cùng, năm 1861, một công ty vận tải biển tại Philadelphia đã tập trung được một đội thủy thủ bằng cách cho những thủy thủ khỏe mạnh mới vào nghề uống say mèm rồi lừa họ lên tàu. Chuyến tàu đó đã cập bến London an toàn.

Cánh cửa vào thương mại thế giới đã mở ra và dầu của châu Mỹ nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường trên toàn thế giới. Người dân ở khắp mọi nơi bắt đầu được hưởng những lợi ích mà dầu đem lại. Như vậy, rõ ràng là ngay từ đầu, việc buôn bán dầu đã mang tính quốc tế và đã trở thành một ngành thương mại quốc tế. Ngành công nghiệp dầu lửa của Mỹ không đạt được mức độ phát triển và tầm quan trọng như vậy nếu sản phẩm không được xuất khẩu ra các thị trường nước ngoài.

Tại châu Âu, nhu cầu về các sản phẩm dầu của Mỹ tăng lên nhanh chóng do quá trình công nghiệp hóa, tăng trưởng kinh tế và đô thị hóa cũng như sự thiếu hụt nguồn cung của các sản phẩm chất béo và dầu vốn đã từng làm châu lục này khốn đốn suốt thời gian dài. Sự phát triển của các thị trường đa dạng càng được đẩy mạnh thông qua các lãnh sự của Mỹ tại châu Âu. Những quan chức ngoại giao này rất hăng hái trong việc thúc đẩy sự phát triển của mặt hàng được gọi là "phát minh kiểu Mỹ" này. Nhiều người trong số họ thậm chí còn mua dầu bằng tiền túi rồi bán lại cho những khách hàng tiềm năng.

Hãy xem nhu cầu của thị trường thế giới có ý nghĩa như thế nào? Thứ nhiên liệu thắp sáng đã trở nên phổ biến trên khắp thế giới này không phải do một quốc gia mà chính xác hơn là một bang duy nhất cung cấp, bang Pennsylvania. Sẽ không bao giờ lại có bất kỳ một vùng đất đơn lẻ nào có thể độc quyền cung cấp dầu thô như vậy nữa. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, xuất khẩu đã trở nên vô cùng quan trọng đối với ngành công nghiệp dầu lửa của Mỹ nói riêng và nền kinh tế quốc dân của nước này nói chung. Trong những năm 1870 và 1880, Mỹ xuất khẩu tới hơn một nửa sản lượng dầu sản xuất trong nước. Dầu lửa khi đó là mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu đứng thứ tư, và đứng hàng đầu trong số các sản phẩm được sản xuất ra. Vào thời điểm đó, châu Âu là thị trường xuất khẩu dầu lớn nhất của Mỹ.

Tính đến cuối thập kỷ 1870, ngành dầu lửa của Mỹ không chỉ do một bang thống trị, mà còn do một công ty duy nhất lũng đoạn. Đó là Standard Oil, 90% dầu lửa xuất khẩu qua tay công ty này. Standard Oil rất hài lòng với một hệ thống mà trong đó trách nhiệm của nó chấm dứt tại một cảng biển bất kỳ nào của Mỹ. Công ty này rất tự tin vào vị trí độc tôn của mình và sẵn sàng thống trị cả thế giới từ trụ sở của công ty tại Mỹ. Trên thực tế, John D. Rockefeller đã có thể áp đặt cái gọi là "kế hoạch của chúng ta" lên toàn bộ thế giới. Vào thời gian đó, Standard Oil tỏ ra vô cùng tự hào về sản phẩm của mình. Theo Giám đốc phụ trách thị trường nước ngoài của công ty này, dầu đã "len lỏi đến mọi ngóc ngách của mọi quốc gia, kể cả phát triển và không phát triển, mạnh mẽ hơn bất kỳ thứ hàng hóa nào trong lịch sử kinh doanh".

undefined
Standard Oil – Tập đoàn dầu lửa hùng mạnh thời kỳ đầu của kỷ nguyên dầu mỏ.

Tất nhiên, một mối đe dọa đã xuất hiện, đó là khả năng diễn ra cạnh tranh quốc tế. Mặc dù vậy, những người đứng đầu Standard Oil đã không tính đến khả năng này. Cạnh tranh quốc tế chỉ có thể xảy ra nếu có những nguồn dầu thô nhiều hơn và rẻ hơn. Báo cáo địa chất của bang Pennsylvania năm 1874 tự hào khẳng định lý do tại sao dầu của bang này có thể thống trị thị trường thế giới. Bản báo cáo này đã bỏ qua câu hỏi về việc thăm dò ở các quốc gia khác có thể tìm thấy dầu hay không mà chỉ cho rằng đó là một vấn đề "có thể sẽ làm ta quan tâm" mà thôi. Khi đó, các tác giả của bản báo cáo đã quá tin vào vai trò thống trị của Mỹ nên thấy không cần thiết phải tìm lời giải đáp cho câu hỏi trên. Và họ đã mắc sai lầm.

"Số tiền gỗ óc chó"

Trong số những thị trường hứa hẹn nhất cho thứ "ánh sáng mới" này có đế quốc Nga bao la đang bắt đầu tiến trình công nghiệp hóa và ánh sáng nhân tạo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đất nước này. Thủ đô St. Petersburg ở một nơi xa xôi về phía bắc đến nỗi, vào mùa đông, thành phố này chỉ có được sáu giờ đồng hồ có ánh sáng ban ngày. Năm 1862, dầu hỏa của Mỹ đã tới được thị trường Nga. Tại St. Petersburg, chất đốt này nhanh chóng được chấp nhận và đèn dầu nhanh chóng thay thế thứ mỡ động vật mà bấy lâu nay người dân ở đây gần như phụ thuộc hoàn toàn.

Tháng 12 năm 1863, viên lãnh sự Mỹ tại St. Petersburg vui mừng thông báo rằng "chắc chắn nhu cầu đối với dầu của Mỹ sẽ tăng mạnh trong những năm sắp tới". Tuy nhiên, nhà ngoại giao này không tính đến những phát triển trong tương lai tại một vùng đất xa xôi, khó đặt chân tới của đế quốc này. Đó chính là nhân tố sẽ không chỉ giành lại thị trường Nga khỏi các công ty xuất khẩu dầu của Mỹ, mà còn báo hiệu sự thất bại của các kế hoạch toàn cầu của Rockefeller. Trong nhiều thế kỷ, hiện tượng dầu thấm ra ngoài đã được ghi nhận ở bán đảo Aspheron khô cằn, một phần của dãy núi Caucasus kéo dài về phía biển Caspi nằm trong nội địa.

Vào thế kỷ XIII, Marco Polo cho biết đã nghe người ta nói tới một dòng suối ở Baku có dầu chảy ra. Mặc dù loại dầu này "không thể dùng trong thức ăn" nhưng "dùng để đốt thì tốt" và chữa bệnh ghẻ lở ở lạc đà rất hiệu quả. Baku là vùng đất của "những cột lửa vĩnh hằng" được những người bái hỏa giáo tôn thờ. Nói nôm na hơn, những cột lửa này chính là những cột khí đốt dễ bốc cháy, đồng hành với những lớp dầu lắng đọng, thoát ra từ các vết nứt ở những phiến đá vôi xốp. Baku là một phần của một lãnh địa độc lập được sáp nhập vào đế quốc Nga vào những năm đầu của thế kỷ XIX.

Đến khi đó, ngành công nghiệp dầu lửa sơ khai đã bắt đầu hình thành tại đây và, tới năm 1829, đã có 82 hố dầu đào bằng tay. Tuy nhiên, sản lượng thu được rất nhỏ bé. Sự phát triển của hoạt động sản xuất dầu ở vùng này bị cản trở nghiêm trọng bởi cả sự lạc hậu và xa xôi của khu vực, cũng như của chính quyền Sa hoàng thối nát, độc đoán và bất tài vốn coi ngành công nghiệp nhỏ bé này thuộc độc quyền của nhà nước. Cuối cùng, vào những năm đầu thập niên 1870, Chính phủ Nga đã bãi bỏ hệ thống độc quyền và mở cửa ngành công nghiệp dầu lửa cho các doanh nghiệp tư nhân cạnh tranh. Kết quả là sự bùng nổ của hoạt động sản xuất dầu. Thời đại của những hố dầu đào bằng tay chấm dứt.

Vào các năm 1871, 1872 đã có những giếng dầu đầu tiên được khoan và tới năm 1873, đã có hơn 20 nhà máy lọc dầu nhỏ đi vào hoạt động. Không lâu sau đó, một nhà hóa học có tên Robert Nobel đã đặt chân tới Baku. Ông là con trai lớn của Immanuel Nobel, nhà phát minh lớn người Thụy Điển nhập cư vào Nga năm 1937 và lực lượng quân sự tại Nga đã vui mừng áp dụng phát minh mìn dưới nước của ông. Immanuel đã xây dựng một công ty công nghiệp khá lớn và công ty này chỉ bị phá sản khi Chính phủ Nga chuyển từ mua hàng trong nước sang mua hàng từ nước ngoài. Con trai của Immanuel là Ludwig đã xây dựng một công ty vũ khí lớn trên đống gạch tàn của công ty cũ. Ngoài ra, Ludwig còn phát triển "bánh xe Nobel", loại bánh xe duy nhất phù hợp được với những con đường tồi tệ ở nước Nga.

Một người con trai khác của Immanuel là Alfred có năng khiếu cả về hóa học và tài chính. Nghe theo gợi ý của một thầy giáo ở St. Petersburg về nitroglycerine, Alfred đã tạo ra một đế chế thuốc nổ rộng lớn khắp toàn cầu nằm dưới sự điều hành của ông từ Paris. Tuy nhiên, Robert, người con trai cả của Immanuel Nobel, lại không có được may mắn lớn như các em. Ông thất bại trong nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau và rốt cục phải quay về St. Petersburg làm việc cho Ludwig.

Ludwig giành được một hợp đồng lớn sản xuất súng trường cho Chính phủ Nga và cần gỗ để làm báng súng. Trong quá trình tìm nguồn cung cấp loại vật liệu này, ông cử Robert đi xuống phía nam, tới dãy núi Caucasus để kiếm gỗ óc chó của Nga. Tháng 3 năm 1873, Robert tới Baku. Mặc dù đã trở thành một địa chỉ giao thương lớn giữa Đông và Tây, nơi người ta giao tiếp với nhau bằng nhiều thứ tiếng, Baku vẫn là một phần của châu Á với những ngôi tháp và nhà thờ Hồi giáo cổ kính của các ông hoàng Ba Tư và dân cư là người Tatar, Ba Tư và Armenia. Tuy nhiên, hoạt động khai thác dầu đã bắt đầu đem lại sự thay đổi lớn cho nơi này. Ngay khi tới Baku, Robert đã bị cuốn vào cơn sốt dầu ở đây. Không thèm hỏi ý kiến em trai – xét cho cùng, ông cũng là anh cả và do đó, ông có những đặc quyền nhất định – Robert dùng ngay số tiền 25.000 rúp mà Ludwig giao cho ông để mua gỗ –"số tiền gỗ óc chó" – để mua một nhà máy lọc dầu nhỏ. Nhà Nobel đã nhảy vào ngành công nghiệp dầu lửa như thế.

Sự phát triển của dầu lửa Nga

Robert nhanh chóng bắt tay vào việc hiện đại hóa và nâng cao hiệu quả của nhà máy lọc dầu mà ông mua bằng tiền của Ludwig. Với nguồn vốn rót thêm từ người em trai, ông nhanh chóng phát triển nhà máy này thành nhà máy lọc dầu mạnh nhất ở Baku. Tháng 10 năm 1876, chuyến hàng dầu hỏa đầu tiên của nhà Nobel đã tới St. Petersburg. Cũng năm đó, Ludwig tới Baku để được tận mắt chứng kiến những gì đang diễn ra ở đây. Lão luyện trong quan hệ làm ăn với chính quyền phong kiến, Ludwig giành được sự ủng hộ của Đại công tước là em trai Sa hoàng kiêm lãnh chúa vùng Causasus.

Tuy nhiên, Ludwig Nobel cũng là một nhà lãnh đạo công nghiệp sừng sỏ, có khả năng vạch ra một kế hoạch với quy mô của Rockefeller. Ông bắt đầu phân tích từng giai đoạn phát triển của ngành công nghiệp dầu lửa; ông học mọi thứ có thể học về kinh nghiệm trong lĩnh vực này của nước Mỹ; ông tăng cường đầu tư vào khoa học-công nghệ, đổi mới và lập kế hoạch kinh doanh để đạt được hiệu quả và lợi nhuận; và ông cũng dành cho toàn bộ hoạt động kinh doanh dầu lửa này sự lãnh đạo và mối quan tâm của chính cá nhân ông. Chỉ trong vài năm, ngành công nghiệp dầu lửa của Nga đã đuổi kịp và thậm chí còn vượt lên dẫn trước ngành công nghiệp dầu lửa của Mỹ, ít nhất là trong một thời gian. Và người đàn ông Thuỵ Điển có tên Ludwig Nobel này trở thành "Ông vua dầu lửa của Baku".

Vận tải đường dài là một vấn đề có tính chất quyết định. Từ Baku, những thùng dầu phải vượt qua một tuyến đường dài và khó đi. Ban đầu, những con thuyền chở dầu sẽ đi 600 dặm về phía bắc, từ biển Caspi tới Astrakhan; sau đó, dầu được chuyển sang các xà lan để tiếp tục một hành trình dài ngược dòng sông Volga. Cuối cùng, dầu được đưa tới một tuyến đường sắt nào đó để tiếp tục vận chuyển tới những nơi khác. Chi phí cho việc vận chuyển dầu rất lớn và, ngay cả những thùng chứa dầu cũng rất đắt đỏ. Gỗ ở địa phương không đủ cho việc sản xuất thùng và người ta phải mua gỗ ở một khu vực xa xôi nào đó của đế quốc Nga, hoặc nhập khẩu gỗ từ Mỹ. Một cách nữa là mua lại những thùng chứa dầu đã qua sử dụng của Mỹ ở Tây Âu. Ludwig đã hình thành trong đầu một giải pháp cho vấn đề thùng chứa và giải pháp này của ông có ảnh hưởng trên phạm vi rộng lớn. Đó là vận chuyển dầu "với khối lượng lớn" – tức là, vận chuyển dầu trong những bể chứa được xây dựng sẵn trên tàu.

Kính thưa quý vị, chương trình Podcast - Thời sự của Báo Công Thương đến đây xin được tạm dừng. Cảm ơn quý vị đã quan tâm theo dõi và lắng nghe, rất mong quý vị sẽ luôn đồng hành cùng chương trình của chúng tôi. Xin kính chào tạm biệt và hẹn gặp lại trong những bài Podcast tiếp theo.

Đầu xuân trò chuyện cùng Phó Tham mưu trưởng Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng

Đầu xuân trò chuyện cùng Phó Tham mưu trưởng Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng

Nhà máy Z111, Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng (CNQP) là một trong những đơn vị quan trọng của ngành quân giới Việt Nam, nhiệm vụ chính là sản xuất và sửa chữa các loại vũ khí bộ binh. Nhà máy đã chế tạo thành công nhiều loại súng mới, công nghệ cao, khẳng định CNQP nước ta tự lực sản xuất được toàn bộ vũ khí bộ binh cho sư đoàn đủ quân. Có được thành công đó phải kể đến việc dám nghĩ, dám làm, tận tâm, tận tụy của tập thể lãnh đạo, chỉ huy, trong đó có Đại tá, TS Phan Thị Hoài Vân - Bí thư Đảng ủy Nhà máy.

undefined
Đại tá, TS Phan Thị Hoài Vân

Trưởng thành từ một cán bộ làm nhiệm vụ thương mại quân sự nên công tác xúc tiến thương mại, phát triển thị trường, được chị Hoài Vân chú trọng. Từ khi về Nhà máy Z111 thì công tác này được chị theo dõi và có những hướng đi hiệu quả. Với cương vị lãnh đạo, Chủ tịch Công ty ở một đơn vị lớn và có bề dày lịch sử, Đại tá, TS Phan Thị Hoài Vân nhận thức rõ trọng trách của mình là vinh dự và là trách nhiệm lớn lao, vì vậy, nó cũng đặt ra cho chị nhiều áp lực. Tận dụng các mối quan hệ truyền thống, Nhà máy nhận được nhiều đơn hàng xuất khẩu, mở rộng thị trường; đời sống cho cán bộ, công nhân viên được nâng lên.

Nâng cao nhận thức về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là trẻ em, học sinh

Nâng cao nhận thức về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là trẻ em, học sinh

Những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Trong đó, quyền và lợi ích của người tiêu dùng ngày càng được quan tâm, tạo điều kiện phát triển mạnh mẽ và an toàn cả trong các giao dịch truyền thống lẫn giao dịch hiện đại.

Tuy nhiên, cùng với sự phát triển, thực tế cho thấy vẫn còn một bộ phận người tiêu dùng có những đặc điểm riêng như trẻ em, học sinh, sinh viên thường xuyên gặp khó khăn, hạn chế trong quá trình tiêu dùng hàng ngày.

Trước thực tiễn đó, từ năm 2021, Bộ Công Thương đã ban hành Đề án “Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chính sách, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cho người tiêu dùng yếu thế giai đoạn 2021 - 2025”. Hơn 4 năm qua, trong khuôn khổ các hoạt động của Đề án, với vai trò là đơn vị được giao nhiệm vụ triển khai, Uỷ ban Cạnh tranh Quốc gia đã phối hợp với nhiều cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan như: Báo Công Thương, các trường đại học trên cả nước, các doanh nghiệp,… thực hiện nhiều hoạt động có ý nghĩa và thiết thực nhằm hướng tới các nhóm người tiêu dùng yếu thế khác nhau.

Nhằm tạo diễn đàn để đại diện các cơ quan quản lý, các chuyên gia, nhà giáo cùng trao đổi, thảo luận về kết quả bước đầu, cũng như phân tích những khó khăn, vướng mắc trong quá trình tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chính sách, pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cho người tiêu dùng yếu thế, hôm nay, Báo Công Thương tổ chức chương trình Chính sách và đối thoại với chủ đề: “Nâng cao nhận thức về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng là trẻ em, học sinh”

Chương trình của chúng tôi đang được phát trực tiếp trên Báo Công Thương điện tử tại địa chỉ Congthuong.vn và trên các nền tảng mạng xã hội Fanpage, Youtube, Tik Tok Báo Công Thương.

Tham gia chương trình hôm nay có các diễn giả:

Ông Hồ Tùng Bách - Phó trưởng ban Ban Bảo vệ Người tiêu dùng, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia

- Ông Bùi Thanh Thủy - Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hội bảo vệ Người tiêu dung Việt Nam

- Luật sư Nguyễn Thanh Hà, CEO Công ty Luật Sb Law

- TS. Nguyễn Ngọc Quyên, Trưởng Bộ môn Pháp luật Cạnh tranh và Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, Khoa Pháp luật Kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội.

Cán bộ Kiểm sát Trương Quốc Anh: Người dân vẫn mắc bẫy dù những thủ đoạn lừa đảo cũ

Cán bộ Kiểm sát Trương Quốc Anh: Người dân vẫn mắc bẫy dù những thủ đoạn lừa đảo cũ

Xin kính chào quý vị khán giả đã đến với chương trình Diễn đàn - Đối thoại của Báo Công Thương, cùng gặp gỡ những nhân vật nổi tiếng với những câu chuyện lan tỏa, có ý nghĩa trong cộng đồng xã hội.

undefined
Cán bộ Kiểm sát Trương Quốc Anh chia sẻ những lời khuyên giúp phòng tránh chiêu trò lừa đảo, giả mạo shipper giao hàng.

Thưa quý vị! Thời gian gần đây, bản thân tôi cũng như nhiều người đã từng mắc phải một chiêu trò lừa đảo, giả mạo shipper giao hàng với những chiêu trò lừa đảo, khiến nhiều người bị mất tiền bởi nhẹ dạ cả tin, đánh vào thói quen mua sắm của người tiêu dùng, những người hay mua hàng trên các sàn thương mại điện tử.

Trò chuyện cùng Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu

Trò chuyện cùng Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu

undefined
Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu, một vị tướng lĩnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam từng trực tiếp tham gia 4 chiến dịch lịch sử lớn

Trên hình ảnh là Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu, một vị tướng lĩnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Ông từng trực tiếp tham gia 4 chiến dịch lịch sử lớn: Chiến dịch mậu thân năm 1968; Chiến dịch đường 9 Nam Lào 1971; Chiến dịch Quảng Trị 1972; Chiến dịch đại thắng mùa xuân năm 1975. Được phong anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 26 tuổi. Được phong quân hàm thiếu tướng năm 40 tuổi, trở thành vị tướng trẻ tuổi nhất thời chiến chống Mỹ. Khi hoà bình trở lại, trên cương vị công tác và khi nghỉ hưu, ông đã viết được 9 cuốn sách về quân sự, đối ngoại. Cuộc đời ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong chiến đấu, trở thành lãnh đạo chuẩn mực, tấm gương sáng trong sự nghiệp Quốc phòng tòan dân thời bình và hiện tại vẫn tiếp tục cống hiến cho xã hội trên cương vị Viện sĩ Viện Khoa học quân sự. 2 lần đón nhận Huân chương chiến công hạng nhất, 2 Huân chương chiến công hạng nhì, 3 Huân chương chiến công hạng ba, được phong tặng Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân là những dấu mốc đáng nhớ và tự hào trong cuộc đời binh nghiệp, đấu tranh bảo vệ tổ quốc và phụng sự nhân dân và dân tộc Việt Nam của Thượng tướng - Nguyễn Huy Hiệu.

Cuộc đời và sự nghiệp của ông đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ, với tư duy: tri ân không chỉ dành cho đất nước, đồng đội, dòng họ, bạn bè mà cả gia đình.

Sau khi nghỉ hưu, Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu đã quyết định tiếp tục dành phần lớn thời gian của mình để nghiên cứu, thực hiện và triển khai những dự án tri ân, thể hiện lòng biết ơn đối với cộng đồng, đất nước, và đặc biệt là hướng về những người đã đồng hành, những đồng đội đã gắn bó cùng ông trong suốt sự nghiệp quân sự. Cả cuộc đời ông luôn tâm niệm một điều như một kim chỉ nam là lẽ sống trong cuộc đời: “Càng biết ơn, tri ân trả ơn cuộc đời, càng được nhiều hơn.” Nhiều hơn ở đây nghĩa là được nhiều tình cảm, trí huệ và năng lượng sống tích cực để có thể đón nhận và chia sẻ những điều tốt đẹp nhất đến cuộc đời này. “Một đời phụng sự, biết ơn, tri ân và trả ơn nhân dân và tổ quốc!”

Trung tướng Phạm Tuân: Tự hào hy sinh tuổi xuân để chiến đấu bảo vệ bầu trời Tổ quốc

Trung tướng Phạm Tuân: Tự hào hy sinh tuổi xuân để chiến đấu bảo vệ bầu trời Tổ quốc

Ngôi nhà nhỏ nằm sâu trong lối ngõ trên phố Cù Chính Lan - quận Thanh Xuân - TP Hà Nội là nơi gắn bó và cư ngụ của một nhân vật vô cùng đặc biệt, người được cả thế giới biết đến với sự kính trọng đầy ngưỡng mộ, thế nhưng cuộc sống của ông lại hết sức bình dị và gần gũi: Anh hùng, phi công, Trung tướng Phạm Tuân. Ông chính là người đầu tiên bắn hạ máy bay B52; người từng được phong Anh hùng tới 3 lần; và cũng là người Châu Á đầu tiên trong lịch sử từng xuyên qua tầng khí quyển để chinh phục vũ trụ. Nhắc tới ông, là nhắc tới một vị anh hùng đáng tự hào trong dòng chảy lịch sử hào hùng, bất khuất của đất nước Việt Nam thân yêu.

Trong những ngày tháng 7/2024, thời khắc đặc biệt trong năm mà tất cả mỗi người dân Việt Nam đều nhớ tới và tri ân những thế hệ cha ông đi trước đã có những công lao và đóng góp cho nền độc lập của dân tộc, hướng tới ngày kỉ niệm Thương binh liệt sĩ 27/7, phóng viên Báo Công Thương của chúng tôi đã may mắn có dịp gặp gỡ, trò chuyện và phỏng vấn người hùng của đất nước - Trung tướng Phạm Tuân. Xin được chia sẻ cuộc trò chuyện đến quý vị độc giả.

undefined
Phóng viên Báo Công Thương phỏng vấn Trung tướng Phạm Tuân

PV: Xin kính chào Trung tướng Phạm Tuân, cảm ơn ông đã nhận lời gặp gỡ và trò chuyện với Báo Công Thương của chúng tôi ngày hôm nay.

Trung tướng Phạm Tuân: Xin kính chào quý vị độc giả của Báo Công Thương.

PV: Thưa Trung tướng, chiến tranh đã lùi xa, độc lập hòa bình đã và đang được hiện hữu, nhưng lịch sử và những con người làm nên lịch sử vẫn luôn là điều được nhiều thế hệ ghi nhớ không quên. Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, xin ông có thể chia sẻ ký ức của mình về trận chiến “Điện Biên Phủ trên không” 12 ngày đêm lịch sử trên bầu trời Hà Nội năm 1972, một ký ức đau thương hào hùng không bao giờ quên của người dân Hà Nội?

Trung tướng Phạm Tuân: Chúng ta phải khẳng định là chiến thắng của trận Điện Biên Phủ trên không mang ý nghía rất to lớn đối với chiến thắng chung của đất nước chúng ta. Nếu không có chiến thắng của trận Điện Biên Phủ trên không thì việc chúng ta giải phóng miền Nam còn gặp nhiều khó khăn. Chính vì ý nghĩa rất to lớn như thế nó là cội nguồn của trận Điện Biên Phủ trên không mà Mỹ quyết dùng B52 để đánh sập Hà Nội của chúng ta, làm cho chúng ta mất đi ý chí chiến đấu không chi viện cho chiến trường miền Nam được, để Mỹ thắng ở miền Nam. Nhưng chúng ta lại lật ngược thế cờ đó, chúng ta lại đánh thắng. Và chính chiến thắng đó đã buộc Mỹ phải rút khỏi Việt Nam. Chúng ta đã phản công và chúng ta đã chiến thắng, và chiến thắng của đánh B52 nó gắn liền với kết thúc chiến tranh giải phóng dân tộc của chúng ta. Ý nghĩa của nó to lớn như vậy, nó mang tầm cỡ Quốc Tế rất lớn lao: “Một dân tộc nhỏ với ý chí chiến đấu kiên cường đã đánh thắng một Đế quốc lớn”. Chúng ta thêm lần chứ hai đánh thắng một Đế quốc lớn. Năm 1954 đánh thắng Pháp - năm 1975 đánh thắng Mỹ, điều đó có ý nghĩa rất lớn.

Tôi rất là vinh dự và tự hào được là người chuẩn bị cho chiến đấu và được chiến đấu trực tiếp từ những ngày đầu tiên cho đến ngày cuối cùng, 12 ngày đêm chúng tôi góp mặt và chúng tôi đã hoàn thành sứ mệnh của mình cùng với bộ đội phòng không, cùng với lực lượng vũ trang nhân dân, quân khu Thủ đô, quân khu miền Bắc đã đánh bại B52 của Đế quốc Mỹ. Để cho thế giới bây giờ đều phải thấy chiến thắng của chúng ta là tuyệt vời!

PV: Thưa Trung tướng, cảm xúc của ông như thế nào khi đối diện với máy bay địch?

Trung tướng Phạm Tuân: Chúng tôi được nhận lệnh là chuẩn bị đánh B52 từ rất lâu rồi, từ những năm 1967, 1968, lúc bấy giờ chúng ta đã thành lập được phi đội bay đêm để chủ yếu đánh B52. Chúng ta biết rặng B52 nó rất hiện đại, cái độ bom đạn của nó để tàn sát và phá hủy chúng ta là rất lớn. Chỉ cần 1 biên đội B52 vào được Hà Nội thôi, mà nó ném bom được vào Hà Nội thì một phần Hà Nội của chúng ta sẽ bị tan hoang, và Mỹ nó dành tới tận 200 chiếc B52 để đánh chúng ta. Thế cho nên Đảng ta đã rất tài tình để phán đoán rằng trước khi Mỹ thua, thế nào nó cũng đánh vào Hà Nội. Nếu đánh vào Hà Nội mà ta không thắng được nó, thì nó không thua. Mà Bác Hồ đã nói “Mỹ nhất định sẽ thua, nhưng chỉ chịu thua sau khi thua trên bầu trời Hà Nội”. Qua tổng kết Bác Hồ đã chỉ ra là như vậy.

Thế nên là từ rất lâu rồi chúng ta đã chuẩn bị từ huấn luyện, từ ý chí, từ quyết tâm, từ chiến thuật, về cách đánh một cách rất đầy đủ, chúng ta chờ địch đến để đánh. Chính là chúng ta biết được âm mưu thủ đoạn của địch để từ đó chúng ta phán đoán ra những hành động của nó, để rồi chúng ta chuẩn bị trước để tìm cách đánh thắng được nó. Đó là nguồn cội của chiến thắng là ở chỗ đó. Tôi với phi đội bay đêm lúc đó chỉ có 10 người thôi, trong khi đó Mỹ có tới 200 máy bay B52, mỗi ngày đêm nó đem vào Việt Nam chúng ta khoảng từ 70-100 máy bay B52 và vài ba trăm lần máy bay khác nữa. Còn chúng ta chỉ có từng ấy tên lửa, chỉ có từng ấy máy bay, nhưng cuối cùng chúng ta vẫn chiến thắng. Phải nói là cuộc đọ sức, một cuộc chiến không cân sức về vũ khí trang bị. Nhưng chúng ta có con người, chúng ta có tinh thần, chúng ta có ý chí, chúng ta cũng có vũ khí khá hiện đại và làm chủ vũ khí đó, đặc biệt là có cách đánh của Việt Nam chúng ta. Cuối cùng, sức mạnh tổng hợp của Việt Nam chúng ta đã dành chiến thắng!

Tôi là 1 trong 2 phi công xuất kích đầu tiên vào đêm đầu tiên 18/12. Tôi về hạ cách trong điều kiện sân bay bị đánh, đèn đóm không đủ, không có đèn chiếu sáng để hạ cánh. Máy bay của tôi cũng gần hết dầu, nhưng vẫn quyết tâm hạ cánh xuống sân bay để tiếp tục đi chiến đấu. Máy bay rơi vào hố bom và bị lật ngửa trên đường băng. Đêm đầu tiên 3 phi công của chúng ta cất cánh lên đều rơi vào tình trạng như vậy, khó khăn lắm. Tiếp sau những đêm sau chúng tôi cất cánh chặn B52 đuổi nó ra, làm tan đội hình của nó để cho tên lửa đánh, nhưng mà, 7-8 đêm không quân không đánh được, chưa đánh được. Lúc bấy giờ thì chúng tôi không nghĩ gì đến hi sinh gian khổ, chỉ nghĩ làm sao mà đánh được nó, đấy mới là cái khó. Nó bay đêm, nhiễu mù mịt dẫn đường không nhìn thấy, trên trời rada chúng ta không phát hiện được và lại bị rất nhiều máy bay của nó đuổi chúng ta nữa… thế thì làm sao để vượt được qua muôn vàn khó khăn để đuổi đánh B52.

Tên lửa thì họ đánh được rồi nhưng không quân thì chưa đánh được, thì đến đêm 27/12, sau khi chúng ta rút kinh nghiệm về chiến đấu, chúng ta đã nghĩ ra được và tìm ra được cách đánh của chúng ta. Chúng ta đi ra ngoài xa, không bay quanh Hà Nội nữa, dùng rada vòng ngoài để dẫn đường, và phi công phóng lên tích lũy tốc độ độ cao để làm sao tiếp cận B52 nhanh nhất, vượt qua hàng phòng thủ của nó để chúng ta đánh. Đó là cách đánh sáng tạo của người Việt Nam chúng ta. Chỉ một tuần đánh nhau thôi mà chúng ta đã nắm được âm mưu, nắm được cách đánh của địch rồi. Biết được nó rồi thì chúng ta thay đổi cách đánh, chính nhờ vậy mà chúng ta đã thắng. Và tôi là người đầu tiên thực hiện chiến thuật đó, chính nhờ thực hiện chiến thuật đó mà tôi đã bắn rơi được B52. Khi bắn rơi được B52 tôi mừng và phấn khởi lắm. Nhưng mình không phải mừng vì thành công của mình đâu, mà mừng vì không quân nhân dân Việt Nam đã bắn rơi được B52. Cả đơn vị không quân mừng vui vô cùng. Cái gì chúng ta bàn, cái gì chúng ta tập luyện, cái gì chúng ta thực hiện thì bây giờ đã đánh được B52. Tiếp sau đó là anh Vũ Xuân Thiều, ngày thứ 2, 28/12, anh Thiều bắn rất gần, đâm vào B52 và hi sinh. Và đó, tôi muốn nói đó là chiến công của cả một tập thể, chiến công của lãnh đạo chỉ huy, cho đến những người phục vụ, để phi công của chúng tôi là những người thực hiện chỉ cần ấn nút thôi. Và rõ ràng, mình tự hào là đã thực hiện được là một trong những người của tập thể đó đã làm trọn nghĩa vụ của mình, và không quân của chúng ta đã đánh được B52. Mình tự hào về điều đó. Tất nhiên, cá nhân của mình cũng vui, cũng phấn khởi, nhưng chúng ta đã trả được cái gánh nặng là không quân Việt Nam đã bắn rơi nhiều loại máy bay rồi, bây giờ B52 vào chúng ta bắn tiếp.

Nhưng thực sự người ta hi sinh để vì để bồi dưỡng cho thế hệ phi công Việt Nam chúng ta, chúng ta luôn luôn phải nhớ ơn, nếu không có sự giúp đỡ của Liên Xô, chắc chắn rằng cuộc chiến tranh của chúng ta không biết rằng sẽ kéo dài bao lâu. Tôi không nói là không thành, nhưng chắc chắn rằng còn khó khăn, gian khổ nhiều. Bấy giờ vũ khí hiện đại đều là do Liên Xô cung cấp cho chúng ta: Máy bay, tên lửa, súng đạn… đều là do Liên Xô cung cấp hết. Thì đấy, sức mạnh chiến đấu của quân đội có hai vấn đề: con người và vũ khí, thì liên Xô cung cấp vũ khí là chính, chúng ta cũng tự túc được nhưng không đáng kể trong trận chiến tranh đó. Đặc biệt là chiến tranh phòng không. Có nền hòa bình độc lập, thống nhất, chúng ta phải luôn ghi nhớ. Mà tình hữu nghị của chúng ta với Liên Xô lúc bấy giờ là vô tư, trong sáng, thủy chung. Người ta coi cuộc chiến đấu của mình cũng gần như cuộc chiến đấu của người ta. Hết vũ khí người ta tiếp viện, cần chuyên gia quân sự người ta cử sang, người ta cùng với mình để nghiên cứu… tất cả những cái đó họ đã làm. Đó là tình hữu nghị thủy chung giữa nhân dân hai nước, giữa hai Đảng chúng ta, nó tạo nên một mối quan hệ gắn bó là như vậy. Tất nhiên sau này Liên Xô sụp đổ rồi, thì bây giờ với nước Nga, chúng ta vẫn là tình hữu nghị đó, nhưng mang một sắc thái khác: Đó là hai bên cùng có lợi. Lúc bấy giờ chỉ có chúng ta có lợi, Liên Xô cung cấp cho chúng ta. Nhưng vẫn phải thấy mối quan hệ chặt chẽ như vậy. Đặc biệt là tôi, những gì tôi làm được, từ chiến đấu cho đến bay vào vũ trụ, cho đến trở thành chỉ huy trưởng thành sau này thì các trường của Nga đóng một vai trò rất lớn. Các thày dạy tôi bay, dạy tôi tham gia chiến đấu, rồi lại bồi dưỡng tôi cho tôi bay vào vũ trụ, cái gì tôi đạt được đều có công lao rất lớn. Tôi nói cả về riêng - chung của tôi là như vậy.

Thế nên dù hoàn cảnh nào, cho đến bây giờ cũng thế, gần đây khi Tổng thống Putin sang thăm nước ta nó thể hiện rất lớn mối quan hệ giữa hai dân tộc chúng ta gắn bó, hiểu nhau. Phải nói là người Nga họ rất chân chất, tinh thần yêu nước của họ rất cao. Nước Nga là đất nước vĩ đại, đồng thời con người cũng rất chân thực, mến mộ đất nước Việt Nam chúng ta. Mình ngày xưa là phi công sang, tiếng Nga thì kém, họ đã dạy dỗ rất tận tụy để bồi dưỡng mình trở thành các phi công chiến đấu. Cảm động lắm! Khi chúng tôi về, những người phục vụ vẫn ra căn dặn: “Thương quá, chúng mày ở lại bay thêm ít nữa. Chúng mà còn trẻ lắm, đôi khi đánh nhau còn khó khăn. Nếu bay tốt nữa về đánh nhau còn tốt hơn..”. Người ta thương lắm! Nước Nga ngày xưa họ đánh nhau rồi, trong chiến tranh thế giới thứ 2 họ đã biết thế nào là hi sinh là như thế nào rồi. Nhưng thôi, một mặt tình cảm thế nhưng chúng tôi vẫn phải về để chiến đấu. Thế hệ chúng ta sau chiến tranh chủ yếu được học tập từ Nga, Trung Quốc có, các nước khác có, nhưng vẫn chủ yếu là Nga. Người ta giúp cho mình giáo dục đào tạo là người ta cho mình một thứ rất lớn, là của cái rất lớn để khai thác, xây dựng và bảo vệ tổ quốc chúng ta. Cho đến giờ vẫn còn đi học và thậm chí đến nay vẫn còn đi học ở Nga cơ mà. Thế nên nói về người Nga, nói về dân tộc Nga, nói về những công lao tôi nghĩ không bao giờ phủ định cái đó. Dù đời chúng ta hay đời về sau nữa, dân tộc chúng ta vẫn truyền lại truyền thống “uống nước nhớ nguồn” và nhớ đến những tình cảm của họ, công lao của họ, công sức của họ đã dành cho đất nước của chúng ta.

PV: Là người Châu Á đầu tiên có vinh dự được bay vào vũ trụ, chắc hẳn Trung tướng đã phải có những nỗ lực, cố gắng rèn luyện, cố gắng học tập rất nhiều để thể hiện bản lĩnh của người Việt Nam để có được cơ hội và vinh dự vô giá đó. Xin ông có thể chia sẻ những suy nghĩ và định hướng của ông như thế nào trong việc phát triển công nghiệp vũ trụ?

Trung tướng Phạm Tuân: Tôi vinh dự là người Châu Á đầu tiên bay vào vũ trụ, vì trách nhiệm với Đảng, nhà nước, với nhân dân, mình đã phấn đấu hết sức mình, chuyến bay thành công, hoàn thành nhiệm vụ đề ra. Cũng nhiều lần mọi người hỏi tôi về công nghiệp quốc phòng, công nghiệp vũ trụ của Việt Nam như thế nào thì tôi cũng có chia sẻ là sử dụng vũ trụ vì mục đích hòa bình, vì sự phát triển của đất nước chúng ta không thể thiếu được. Bây giờ từ điện thoại, từ trinh sát, mọi thứ đều dùng công nghệ, chúng ta không thể thiếu công nghệ vũ trụ trong thời đại ngày nay được. Chúng ta bảo chúng ta tham gia vào công nghiệp vũ trụ thì khó lắm, nền kinh tế của chúng ta như thế, mặt bằng khoa học công nghệ của chúng ta như thế, mà công nghệ vũ trụ là công nghệ mũi nhọn trong các nền khoa học công nghệ từ tự động, từ điều khiển, từ tên lửa… chúng ta không tham gia không được.

Tôi luôn luôn nghĩ là chúng ta phải đi từng bước. Đầu tiên là chúng ta phải hợp tác trong khoa học, hợp tác trong nghiên cứu. Trước hết là hợp tác trong sử dụng những thành tựu trong khoa học vũ trụ phục vụ cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Hợp tác để chúng ta sử dụng, khai thác, sử dụng những cái gì mà các nước nghiên cứu, các nước đã có để chúng ta phát triển. Rồi chúng ta lựa chọn những khía cạnh, tiềm năng mà chúng ta có, thí dụ về điện tử, về tự động hóa để chúng ta phát triển.Vừa rồi chúng ta làm những mô hình vệ tinh nho nhỏ, phóng lên chưa đạt kết quả gì, nhưng chúng ta phải làm những cái như thế rồi chúng ta mới có thể làm được những cái lớn hơn được. Nghĩa là đi từng bước một, từ hợp tác khai thác thành quả của nghiên cứu vũ trụ đến tham gia đóng góp vào sản xuất. Đến khi nền khoa học công nghệ của chúng ta phát triển thì chúng ta sẽ bước tiếp những bước lớn hơn nữa. Bay vào vũ trụ thì không khó, phi công của chúng tôi hoàn toàn có thể tập luyện vài năm để bay vào vũ trụ được. Nhưng bay vào để làm gì, có nghiên cứu gì trong đó để mà bay vào, tốn biết bao nhiêu tiền mà lại không ra một sản phẩm nào thì thà chúng ta mua của họ còn hơn. Đấy, tôi nghĩ đi con đường đi của chúng ta thì có lẽ nên như vậy!

PV: Có lẽ sẽ giống như những người lính, những người đồng đội của mình, mỗi dịp đến ngày thương binh liệt sĩ 27/7 hàng năm đều là những dấu mốc và thời điểm khiến ông có những câu chuyện và chia sẻ như thế nào về ngày này, thưa Trung tướng?

Trung tướng Phạm Tuân: Bây giờ ngồi lại để nói về chiến tranh thì anh em chúng tôi, những người còn sống qua cuộc chiến đều nói rằng mình may mắn lắm, mình đã sống qua một cuộc chiến của cả dân tộc mình, một cuộc chiến hết sức ác liệt nhưng hết sức vẻ vang mà mình cũng là người đóng góp, tự hào lắm chứ! Nhưng mình càng tự hào bao nhiêu, mình lại càng có suy nghĩ bấy nhiêu. Tự hào về lớp lớp cha ông chúng ta, lớp lớp bạn bè chúng ta hi sinh tuổi xuân của mình để chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Chúng ta tự hào lắm chứ! Chúng ta không sợ hy sinh! Một đất nước như vậy, còn nghèo như vậy nhưng với ý chí quyết tâm, lòng yêu nước thiết tha của mình, đặc biệt dưới thời đại Hồ Chí Minh đã dấy lên, đã thổi bùng lên ngọn lửa yêu nước, để từ đó xông vào chiến tranh để giành lại độc lập tự do này. Tôi nghĩ tự hào lắm chứ!

undefined
Trung tướng Phạm Tuân trả lời phỏng vấn Báo Công Thương

Nhưng mà, cũng trong dịp này, chúng ta lại nhớ đến những người hy sinh. Nhiều người tài giỏi lắm, phi công chúng tôi nhiều người tài giỏi lắm, nhiều lớp người anh dũng lắm, dũng cảm lắm, sáng tạo lắm… Như anh Hà Văn Chúc một mình đánh 36 chiếc máy bay của địch, vẫn bắn rơi máy bay địch và bay về an toàn. Hay như anh Đỗ Văn Lanh máy bay bị bắn hỏng rồi, bị hết dầu rồi, bảo nhảy dù không nhảy dù, vẫn hạ cánh. Anh Võ Sĩ Giáp cũng như vậy… còn nhiều lắm, còn nhiều nhiều anh hùng lắm. Nghĩ rất là tiếc cho những con người tài hoa nhưng không hề nghĩ đến bản thân mình, vẫn chiến đấu hi sinh cho độc lập tự do của dân tộc. Và nghĩ đến các anh thì chúng tôi lại thấy buồn buồn, vì mình sống qua được chiến tranh mà các anh ại hi sinh, bây giờ có những anh vẫn chưa tìm thấy, những phi công bay trên miền Bắc ấy… Chưa kể hàng ngàn hàng vạn chiến sĩ của chúng ta ở chiến trường Nam Bộ, ở biên giới, ở Campuchia, ở bên Lào đã tìm thấy đâu. Đấy là một điều hết sức xót xa. Tự hào nhưng thấy trong lòng luôn suy nghĩ về các anh, nghĩ rằng chúng ta phải làm gì để xứng đáng với sự hy sinh đó. Nhưng hai cái đó đi với nhau rồi thì còn cái thứ ba nó lại nổi cộm lên, đó là bây giờ không ít người đã chóng quên cái xót xa, tự hào đó đó. Không những không bù đắp được mà lại còn làm những điều trái với luân thường đạo lý, trái với những sự hy sinh đó.

Ba vấn đề tôi suy nghĩ, đó là: Xót xa, thương nhớ và có cái gì nó suy nghĩ về điều gì đó ngày nay chúng ta chưa làm tròn được trách nhiệm của mình. Suy nghĩ của tôi là như thế. Tất nhiên, trong những ngày này, bây giờ đang dấy lên phong trào anh em đi tìm đồng chí đồng đội thắp hương thăm hỏi, cái đó tôi nghĩ là truyền thống dân tộc ta còn truyền lại. Tôi nghĩ những gì chúng ta chưa làm được bây giờ thì làm sao phải giáo dục truyền thống để thế hệ trẻ biết uống nước nhớ nguồn, thấy được ông lao to lớn như thế. Chưa kể đến phản bác cái tư tưởng thù địch, chống phá còn tồn tại, nói sai về cuộc chiến tranh của chúng ta, thì đó là trách nhiệm của mỗi chúng ta, của các anh các chị, của báo chí viết bài để thấy được niềm tự hào như vậy thì con người sống trong độc lập ngày nay phải sống như thế nào cho trọn vẹn.

Chúng tôi anh em đơn vị vẫn thường xuyên gặp nhau, bây giờ chúng tôi chỉ mong làm sao có sức khỏe, mong cho những người tham gia chiến đấu giữ được sức khỏe, giữ được bản lĩnh của người chiến sĩ bộ đội cụ Hồ, bất cứ ở trong hoàn cảnh nào cũng phải vững vàng, tin tưởng và làm tròn trách nhiệm của những người công dân của chúng ta với Đảng, nhà nước, gia đình và xã hội.

PV: Thưa Trung tướng Phạm Tuân, năm nay cũng là năm đặc biệt - kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân... Ông có niềm tự hào như thế nào về truyền thống của lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam cũng như những chia sẻ gì của bản thân nhân sự kiện trong đại này?

Trung tướng Phạm Tuân: Nói đến truyền thống của chúng ta thì nó sáng lắm, truyền thống của đất nước, tuyền thống của dân tộc, và truyền thống của quân đội chúng ta rất là lớn lao. Truyền thống là thể hiện bản chất thực tế. Truyền thống của quân đội chúng ta là “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng hi sinh vì độc lập tự do của dân tộc”, đó là truyền thống của quân đội chúng ta. Chúng ta bây giờ là trách nhiệm của những người còn sống, trách nhiệm của thế hệ trẻ. Phải giữ gìn truyền thống, nhưng không chỉ giữ gìn nó, đánh sáng nó lên hơn nữa mà còn phải xây dựng được thêm những truyền thống mới. Thời đại ngày nay phải làm được cái gì đó thể hiện được bản chất của bộ đội cụ Hồ trong giai đoạn hiện đại. Trước đây đã chiến đấu rồi, thì giờ quân đội chúng ta phải làm điều gì để phát huy, nâng cao nó lên và lập thêm các chiến công mới trong các lĩnh vực, để làm sao mà truyền thống của chúng ta ngày càng dày thêm, thì đó mới là điều quan trọng. Tôi mong muốn chúng ta phải giáo dục được thế hệ trẻ như thế nào, giữ vùng được bản lĩnh của người bộ đội, bản lĩnh của người công dân Việt Nam chúng ta. Kể cả ý chí lẫn khoa học kĩ thuật. Xây dựng được bản lĩnh con người Việt Nam chúng ta trong mọi khó khăn, trong mọi hoàn cảnh. Kể cả bộ đội Việt Nam chúng ta trong thời bình phải huấn luyện chiến đấu, sẵn sàng không để bị bất ngờ. Chúng ta phải làm cho truyền thống không chỉ ở mức độ giữ vững mà phải phát huy thêm, nâng cao nó lên tầm vóc mới thì chúng ta mới xứng đáng với người đã hy sinh xây dựng lên những truyền thống đó.

Mobile VerionPhiên bản di động